đụng tới lầu hai của khóm cây anh đào
Tôi trong tiếng chuông mầu sắc
Hòa âm dưới ánh mặt trời...”
từ một khoảng cách biệt xa
thổi tới tôi
giây phút bị bôi đen
vẫn hiện hữu giống như
lát cắt trên thân cây còn vết...”
”chiếu sáng như bàn tay duỗi ra
- giống như vàng bạc
trong tiệm cầm đồ”
Đường vạch màu sắc tím đậm
Quét dài dọc thân tôi
Không cho lại một chút gì phản hồi
Tất cả chỉ còn ánh sáng
là những nụ hoa vàng
Tôi mang trong bóng tối tôi
giống như cây vĩ cầm
trong thùng đàn đen
tất cả tôi muốn nói
chiếu sáng như bàn tay duỗi ra
giống như vàng bạc
trong tiệm cầm đồ”
xoay về đằng sau đuôi sao chổi lấp lánh dài
giữ chúng ta vào bên trong
tạo thành hình ảnh của đài truyền hình ngập tuyết
mang giọt lạnh buốt nhỏ xuống dây điện thoại.
Một lần có thể còn trượt chậm chậm trên mặt trời mùa đông.
Từ khóm cây nơi mà vài chiếc lá còn đong đưa
Giống như những trang xé toang từ cuốn niên giám điện thoại cũ xưa
Tên tuổi đã bị nuốt vào lạnh lẽo
Thật tuyệt vời khi vẫn còn nghe nhịp đập trái tim
Nhưng thường thì bóng tối như thực tế hơn trong cơ thể
Chàng hiệp sĩ thành không nghĩa lý
Bên cạnh bộ giáp sắt của vẩy rồng đen. ”
tự do từ cuồng quay ngộp thở của người du hành
ngập chìm về hướng xanh biếc của bình minh. ”
Tôi hoàn toàn vô học.
Nhưng tôi đã phải trả tiền cho những tấm biên nhận về tất cả mọi sự
Tôi chất chứa biết bao nhiêu biên nhận không thể đọc được
Tôi là cây cổ thụ với những chiếc lá vô định treo lửng lơ
Và không thể rơi xuống mặt đất
Và thổi không khí từ biển khơi tạo thành cơn xào xạc
của những tờ biên nhận...”
nhiều và rất nhiều người
giống những bảng chỉ đường
như chúng ta đã gặp trên đường phố
Hàng ngàn người nhìn đăm đăm
Trên mặt đất của bóng tối trải dài
Cây cầu tự xây dựng một mình
Chậm rãi
Hướng thẳng tới không gian...”
Tomas Transtromer |
Hàn
Lâm Viện Thụy Điển vừa công bố kết quả giải Nobel
văn chương năm 2011 cho thi sĩ người Thụy Điển, Tomas
Transtromer. Ông là một trong bốn tác giả được nhiều
cơ quan truyền thông có uy tín chọn lựa trong danh sách có
thể đoạt giải là tiểu thuyết gia Nhật Bản Haruki
Murakami, nhà thơ người Syrian Adonis 81 tuổi, ca sĩ nhạc
sĩ và nhà thơ Hoa Kỳ Bob Dylan và Tomas Transtromer người
Thụy Điển 80 tuổi. Ông nổi tiếng vì những bài thơ có
phong vị ngọt ngào, ngôn ngữ có nhiều tầng và đa diện,
cũng như nhiều khám phá về liên hệ con người và thiên
nhiên và những góc cạnh ẩn tàng trong tính nhân bản mà
với công việc của một người trị liệu tâm lý đã
tạo cho ông những cảm hứng để sáng tác. Trong những
năm trước ông là người nằm trong danh sách những tác
giả nổi danh hy vọng đoạt giải như Philip Roth, Joyce
Carol Oates, Salman Rushdie, Comac McCarthy.
Ông
là người châu Âu thứ tám đoạt giải này trong vòng
mười năm sau tiểu thuyết gia người Đức Herta Muller
đoạt giải năm 2009, nhà văn người Pháp JMG Le Clezio năm
2008 và tiểu thuyết gia người Anh Doris Lessing năm 2007.
Ông cũng là người thứ 104 đoạt giải thưởng văn
chương này, cùng với những nhà văn như Mario Vargas Llosa
và Orhan Pamuk và là nhà thơ đầu tiên đoạt giải kể từ
sau khi thi sĩ Nga Wislawa Szymborska năm 1996. Những lời tuyên
dương của ban giám khảo thuộc Hàn Lâm Viện Thụy Điển
như: ”bởi vì, những hình ảnh xúc tích trong suốt với
những cống hiến cho chúng ta những tiếp cận mới lạ
với hiện thực” đã làm những khám phá siêu hiện thực
của thế giới nội tâm con người và như có liên hệ
đến phong cảnh đồi núi nhấp nhô của xứ sở nơi bản
quán thành một phong vị riêng cho thi ca và đã được
chuyển dịch ra tới hơn 50 ngôn ngữ trên thế giới.
Là
nhà tâm lý học, là một thi sĩ nổi tiếng, Tomas
Transtromer đã đoạt giải thưởng hiện kim lớn nhất về
văn chương của thế giới và ông đã phát biểu rằng
ông cảm thấy thực hài lòng. Vợ ông, bà Monica nhìn cuộc
tuyên bố giải thưởng trên màn ảnh truyền hình và sau
đó đã nói: ”Thật là một kimh ngạc vĩ đại. Tomas
cũng kinh ngạc. Mặc kệ sự khảo sát đã có từ nhiều
năm nay ông đã không cho đó là nghiêm trọng thực sự”.
The
Guardian trong bài viết được post lên mạng bởi Alison
Flood có đoạn: ”Việc Transtromer đoạt giải đã vén lên
một vài sự thực, nhưng tôi vẫn hài lòng khi học hỏi
được từ một tài năng quan trọng mà trước đêy tôi
chưa có hiểu biết gì.
Một
thi sĩ Thụy Điển mờ tối hay một người viết sáng rực
hào quang? Bạn có thể miễn chấp, đọc những phản ứng
khi gọi tên Tomas Transtromer là người đoạt giải Nobel
văn chương, nhưng với một chút phân vân.
Mức
phê phán từ hài lòng đến ngạc nhiên rồi giận dữ đã
khởi đi từ chính nhà thơ này. Rõ ràng là ông không thể
nói năng từ khi bị tai biến mạch máu não vào năm 1990
nhưng bà vợ Monica của ông đã tuyên bố với giới
truyền thông rằng ông “kinh ngạc và rất kinh ngạc”
khi đoạt giải ”Sự kiện xảy ra quá nhanh. Chúng tôi
nghĩ ngươì thắng giải sẽ phải nói vài lời trong khi
công bố giải thưởng. Tôi nghĩ Tomas đã nói bốn phút
trước khi được vinh danh” và bà nói thêm để giải
thích ”sự kiện mấy năm trước đây đã chấm dứt
(nhà thơ Thụy Điển đã rất lâu dài thích thú với việc
đoạt giải). Và bà tiếp theo: ”Tôi phải nói tôi rất
hạnh phúc, vì một lý do mà tôi hạnh phúc như vậy.”
Khi phát hành ấn bản sách của Tomas Transtromer từ nhà
xuất bản Thụy Điển Bonnier bà nói thêm họ sẽ ăn mừng
”bằng cá trong bữa ăn chiều nhưng ngưng lại niềm kinh
ngạc”.
Hình
như, trong dư luận văn giới Hoa Kỳ không hài lòng lắm
với kết quả của giải Nobel văn chương năm nay?
Peter
Englund, thư ký thường trực của ban tuyển chọn thuộc
Hàn Lâm Viện Thụy Điển nhận xét rằng sự lựa chọn
này có thể gây ra những dư luận phê phán trên thế giới
nhưng lại thêm rằng một điều mà chúng ta phải ghi khắc
trong tâm là đã hơn 40 năm nay mới có sự kiện người
Thụy Điển đoạt giải thưởng văn chương này kể từ
năm 1974 khi hai tác giả Thụy Điển là Eyvind Johnson và
Harry Martinson đoạt giải. Và sự kiện ấy không phải
trải dài năm này qua năm khác. Englung kết luận: ”Chúng
tôi đã suy nghĩ kỹ càng trước khi quyết định và đã
không hấp tấp khi chọn lựa một người Thụy Điển
Vả
chăng, Tomas Transtromer là một thi sĩ nổi tiếng trên khắp
thế giới, thơ được chuyển dịch sang tới hơn 50 ngôn
ngữ và cũng là một trong những thi sĩ còn sống mà tác
phẩm được chuyển dịch nhiều nhất. Englund đã dẫn
chứng từ hai tác phẩm được chuyển dịch sang Anh ngữ
”The Half-Finished Heaven“ và "New Collected Poems”. "Cả
hai đều là những tác phẩm vàng ròng. Là những tuyệt
tác và tôi cũng hiểu biết rằng đó là dịch phẩm tuyệt
vời”
Thi
sĩ Scottish Robin Fulton, người đã dịch New Collected Poems
và cũng đã làm việc cộng tác với Transtromer cả năm đã
phát biểu đại ý trong một vài cảm nhận mà người
đoạt giải mong muốn là nhìn lại về những công trình
đã thực hiện trong đời sống. Ông nói ”Tomas
Transtromer đã nổi tiếng ghê gớm - nổi tiếng như một
thi sĩ có thể nổi tiếng đến như vậy. Một vài tác
giả bắt đầu nổi tiếng sau khi đoạt giải nhưng ông
đã nổi tiếng trước khi đoạt giải Nobel. ”
Fulton
cũng đồng ý với Hội Đồng giám khảo giải Nobel khi
khen ngợi về ”những hình ảnh trong suốt xúc tích”
của Tomas Transtromer và nhận xét rằng những hình ảnh ấy
vượt qua được biên giới của ngôn ngữ. Có nhiều nhà
thơ đã xử dụng ngôn ngữ của mình chặt chẽ đến nỗi
khó khăn để chuyển dịch tất cả ý tưởng. Transtromer
thì không như vậy. Trong nhiều phương cách ngôn ngữ mà
ông xử dụng liên hệ giữa sự không mạo hiểm và giản
đơn nhưng tạo dựng những hình ảnh khác thường mà đôi
khi là sự kinh ngạc tột độ và tạo thành sự choáng
váng cho người đọc. Và đó chính là mục đích mà thi
ca của thi sĩ phải tạo ra.
“Tôi
nghiêng như một ngọn thang và với khuôn mặt tôiđụng tới lầu hai của khóm cây anh đào
Tôi trong tiếng chuông mầu sắc
Hòa âm dưới ánh mặt trời...”
Những
hình ảnh ấy đã gợi tới nhiều liên tưởng để từ
ngôn ngữ này chuyển sang thi ảnh khác. Transtromer đã viết
trong “Winter’s Gaze”:
“cơn
lạnh bất thình lìnhtừ một khoảng cách biệt xa
thổi tới tôi
giây phút bị bôi đen
vẫn hiện hữu giống như
lát cắt trên thân cây còn vết...”
Mặc
dù Englund nói rằng thơ của Transtromer còn thưa thớt ”bạn
có thể gom tất cả vừa vặn một tập sách cầm tay
không lớn lắm và tất cả là ở đấy" nhưng thư ký
hội đồng chấm giải lại khen tặng là thơ của Tomas
Transtromer có ngôn ngữ “thanh tú”. “Thơ của ông viết
với một câu hỏi lớn về nỗi chết, lịch sử, ký ức,
thiên nhiên. Chất nhân bản đã được sắp xếp trong trụ
cột nơi mà tất cả các thực thể lớn gặp gỡ và làm
chúng ta quan trọng. Bạn sẽ không bao giờ cảm thấy bé
nhỏ khi đọc thơ Tomas Transtromer.”
Sinh
ở Stockholm vào ngày 15 tháng tư năm 1931, Tomas Gosta
Transtromer đã lớn lên với người mẹ là giáo viên dạy
học sau khi người cha là một ký giả đã bỏ đi. Ông
học ở University of Stochkom và tốt nghiệp chuyên khoa tâm
lý học năm 1956 và bắt đầu làm việc với công việc
của một bác sĩ tâm lý học trị bệnh tâm thần tại
một trung tâm cải huấn những người trẻ tuổi phạm
pháp vào năm 1960.
Tác
phẩm của thi sĩ Tomas Transtromer gồm có: The Great Enigma:
New Collected Poems (New Direction, 2003); The Half-Finished Heaven
(2001); New Collected Poems (1997); For The Living and The Dead
(1995); Baltics (1974); Paths (1973); Windows and The Stones (1972),
an International Poetry Forum Selection and a runner - up for the
National Book Award for translation; The Half-Finished Sky (1962);
and Seventeen Poems (1954).
Ở
trong hai sự nghiệp song hành, một nhà thơ
và một người trị liệu tâm lý, ông đã làm việc với
nhiều người tàn tật, bị bệnh tâm thần, người nghiện
hút hay phạm tội và cùng một lúc cũng đã có những cảm
hứng cho sự nghiệp thi ca to lớn của ông.
Ông
bị tai biến mạch máu não và liệt nửa người bên phải
vào năm 1990 và nói năng rất khó khăn. Nhưng ông vẫn
tiếp tục viết và xuất bản thi tập Sorgegondolen và đã
bán hết 30 ngàn bản. Ở lần xuất hiện gần đây ở
London. Tác phẩm của ông đã được đọc bởi nhiều thi
sĩ khác trong khi ông là một dương cầm thủ tài tử đã
trình bày một tấu khúc đặc biệt với đàn dương cầm
chỉ với một cánh tay trái. Fulton phát biểu: “Ông chính
là một thiên tài. Ông đã thật khó khăn đánh vật với
từng chữ nhưng vợ ông đã truyền đạt gìum ông”
Transtromer
đã mô tả thi ca của ông là nơi chốn gặp gỡ của ánh
sáng và bóng tối, nội tâm và ngoại cảnh trượt vào
nhau gây ra những giao thoa bất thình lình với thế giới,
lịch sử hoặc cả với chúng ta. Theo như thi sĩ” ngôn
ngữ bước đi từng bước của đao phủ thủ. Bởi vậy
chúng ta phải có một ngôn ngữ mới”.
Thi
sĩ Robin Robertson, người đã dịch thơ của Tomas
Transtromer cho tuyển tập thi ca The Deleted World phát biểu
rằng tất cả độc giả của thi sĩ Thụy Điển hầu như
đã gửi gấm niềm hy vọng rằng nhà thơ tuyệt vời này
sẽ được thừa nhận ở chính đất nước của ông và
được nhận lãnh giải Nobel. Và Robertson cho rằng quả
thật đã có một kết quả tốt đẹp sau một thời gian
dài chờ đợi và quyết định của Hàn Lâm Viện như một
nỗi vui mừng khôn xiết. Tomas Transtromer không những là
một tác giả Scandinavia tối quan trọng thời kỳ sau World
War II mà ông còn là hình tượng văn học của cả thế
giới và với kết cuộc là được cả hoàn vũ công nhận
qua giải Nobel văn chương.
Tomas
Transtromer làm thơ rất sớm lúc mới 16 tuổi và ông xuất
bản thi tập đầu tiên ”17 Dikter” hay ”Seventeen Poems”
vào tuổi 23. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông xuất
bản năm 1966 ”Windows and Stones” với những đề tài mà
ông gặt hái được từ những cuộc du hành. Thơ của ông
thường là những so sánh liên hệ với nhau tận sâu thẳm
gốc rễ, đi sâu vào trong nội tâm con người lồng trong
phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp của quê hương ông.
Tomas
Transtromer có nhiều điểm hiếm có: là một thi sĩ làm
thơ bằng ngôn ngữ không phải là Anh ngữ mà lại được
đón nhận toàn phần của thi giới Anh và Bắc Mỹ y như
những nhà thơ bản địa ở đây. Vào những năm thập
niên 60, ông bắt đầu liên lạc với Robert Bly và trường
phái thơ Deep Image ở Hoa Kỳ với giao tình rất là đằm
thắm. Hai người liên lạc thư từ với nhau và Bonniers,
người xuất bản sách của Tomas Transtromer đã in “Air
Mail” năm 2001, gồm những lá thư mà hai người Bly và
Transtromer viết cho nhau. Nhà thơ Syrian Adonis đã cũng là
người mang hình tượng thi sĩ Tomas Transtromer đi vào thế
giới thi ca Arab một cách khá sâu rộng. Và thập niên 90
(sau khi xuất bản ấn bản đầu tiên) nhiều nhà thơ UK
liên lạc với ông. Gần đây nhất, Robin Robertson đã
chuyển ngữ tuyển tập thi ca The Deleted World và hy vọng
rằng ấn bản mới gồm những bản dịch thơ của Robin
Fulton có cả những bài thơ mà ông làm gần đây có phong
vị của thơ Haiku Nhật Bản và thơ tản văn ký ức đã
xác định một làn sóng thứ ba hâm mộ thơ của ông.
Robert Bly đã mở đầu bản dịch bài thơ “Tháng tư và
lặng câm” củaTomas Transtromer:
“Transtromer
đã viết bài thơ này trước khi bị tai biến mạch máu
não. Từ đó ông không thể nói năng suốt 15 năm nay nhưng
tâm thức ông vẫn còn nhạy bén. Ông viết để nói
chuyện với vợ mình. Bạn có thể cảm thấy được sức
mạnh của những dòng chữ cuối cùng này của bài thơ
ông viết như: ”chiếu sáng như bàn tay duỗi ra
- giống như vàng bạc
trong tiệm cầm đồ”
Bài
thơ: "Tháng tư và lặng câm” như sau:
”Mùa
xuân lừa dối bỏ điĐường vạch màu sắc tím đậm
Quét dài dọc thân tôi
Không cho lại một chút gì phản hồi
Tất cả chỉ còn ánh sáng
là những nụ hoa vàng
Tôi mang trong bóng tối tôi
giống như cây vĩ cầm
trong thùng đàn đen
tất cả tôi muốn nói
chiếu sáng như bàn tay duỗi ra
giống như vàng bạc
trong tiệm cầm đồ”
Robert
Bly và Tomas Transtromer như đôi bạn tri kỷ và họ hiểu
nhau nên trong nguyên bản và thơ dịch có một điều gì
nhất quán. Thí dụ như bài thơ “After a death” mà Robert
Bly đã dịch sang Anh ngữ với tâm cảm của mình:
“Một
lần đã có cơn đột quỵxoay về đằng sau đuôi sao chổi lấp lánh dài
giữ chúng ta vào bên trong
tạo thành hình ảnh của đài truyền hình ngập tuyết
mang giọt lạnh buốt nhỏ xuống dây điện thoại.
Một lần có thể còn trượt chậm chậm trên mặt trời mùa đông.
Từ khóm cây nơi mà vài chiếc lá còn đong đưa
Giống như những trang xé toang từ cuốn niên giám điện thoại cũ xưa
Tên tuổi đã bị nuốt vào lạnh lẽo
Thật tuyệt vời khi vẫn còn nghe nhịp đập trái tim
Nhưng thường thì bóng tối như thực tế hơn trong cơ thể
Chàng hiệp sĩ thành không nghĩa lý
Bên cạnh bộ giáp sắt của vẩy rồng đen. ”
Thơ
của Tomas Transtromer đầy những hình ảnh tích chứa nhiều
ẩn dụ kèm theo... Có thể đó cũng là những ”hình ảnh
xúc tích trong suốt” mà Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã
nhắc đến trong lời vinh danh. Thí dụ rõ ràng nhất trong
thi phẩm xuất bản đầu tiên năm 1954 ở dòng thứ nhất
của bài thơ đầu số một có bài Prelude có những câu
như:
“thức
giấc từ cánh dù nhảy xuống từ mộng mơtự do từ cuồng quay ngộp thở của người du hành
ngập chìm về hướng xanh biếc của bình minh. ”
Hay
ở bài thơ ”Streets in Shanghai” viết năm 1989 có những
câu:
“Tôi
quanh quẩn theo những bảng hiệu mà tôi không thể chuyển
ngữTôi hoàn toàn vô học.
Nhưng tôi đã phải trả tiền cho những tấm biên nhận về tất cả mọi sự
Tôi chất chứa biết bao nhiêu biên nhận không thể đọc được
Tôi là cây cổ thụ với những chiếc lá vô định treo lửng lơ
Và không thể rơi xuống mặt đất
Và thổi không khí từ biển khơi tạo thành cơn xào xạc
của những tờ biên nhận...”
đến
những khúc cổ ca Hy lạp đầu tiên của bài thơ ”Snow
of Falling” viết năm 2004:
“tang
lễ đang đếnnhiều và rất nhiều người
giống những bảng chỉ đường
như chúng ta đã gặp trên đường phố
Hàng ngàn người nhìn đăm đăm
Trên mặt đất của bóng tối trải dài
Cây cầu tự xây dựng một mình
Chậm rãi
Hướng thẳng tới không gian...”
Mỗi
một ẩn dụ đã khởi đầu với ánh sáng mới lạ của
những kinh nghiệm chung mang của nhiều người. Ở cùng
mỗi thời điểm, mỗi hình như, trong hồi tưởng, nổi
lên một cách tự nhiên từ những chủ đề, một phần
bởi vì thi sĩ đã quá tỉ mỉ về những điều ông đã
thực hiện, một phần bởi vì cảm giác tinh quái của
tính hài hước dẫn dắt cảm quan người đọc để hạ
thấp xuống những phản cảm. Tomas Transtromer không phải
là một nhà thơ hài hước, chắc chắn như vậy. Nhưng
ông đã là một người tràn đầy tính hài hước ấy dù
cho vẫn thường đề cập đến nhiều vấn đề có nhiều
chất nghiêm trọng đứng đắn…
Ken
Worpole, trong một bài nhận định về thi sĩ Tomas
Transtromer có viết đại ý:
“Transtromer
là một nhà sáng tạo với những thi ảnh không mong đợi
của một nghệ thuật không cố tình cho có nghệ thuật,
giản dị nhưng lại đầy quyền lực, sở hữu một tiếng
nói nhất quán đầy ắp hiểu biết về mẫu người đầy
ngạc nhiên và bất ngờ trong những ngõ đường cảm
thức. Ông không phải là nhà thơ của thế giới thành
thị nhưng là của rừng thẳm, của những đường quê
vắng vẻ và bến cảng Baltic đìu hiu hay những làng mạc
ở Phi Châu với những căn phòng nóng bức và nghèo nàn.
Đời sống là một chuỗi dài của tình trạng chuyển đổi
của giây phút có ý thức và nguyên do của sự linh hiện,
nhưng cũng là thời khắc của những tốt đẹp hiện đến
như một huyền nhiệm. Nhạc của những nhạc sư vĩ đại
của thế kỷ 19 như Beethoven, Schubert, Haydn cũng là một
phần tạo thành hình dạng của cuộc sống và kinh nghiệm
ông. Với thi ca của ông có lẫn vào âm nhạc, là chất
liệu hiện hữu nhẹ nhàng nhưng cũng có khi là những đối
nghịch, ngầm chứa trong những năng lực dị thường trải
dài theo sự chuyển đổi liên hệ giữa người và những
yếu tố khác theo một phương hướng lạ lùng làm sửng
sốt người đọc. Ông là một thi sĩ thực sự đúng
nghĩa, bởi vì ông đã giới thiệu với chúng ta một thế
giới đạo đức vững vàng và một phong cảnh đất nước
tốt đẹp mà thể hiện bất cứ lúc nào trong ngòi bút
của ông”
Nguyễn
Mạnh Trinh