Hải Xuân |
Người
khách sau cùng chui vào được bên trong thì chiếc xe đã
rời khỏi bến. Bà đứng lom khom, hai tay quờ quạng không
biết bám vào đâu. Bỗng chiếc xe lắc mạnh, bà mất
thăng bằng, ngồi phệt xuống cái giỏ gà dưới chân.
Mấy con gà hoảng hốt kêu lên oang oác. Người chủ gà
càm ràm, mẹ ơi, đè chết mấy con gà tôi rồi. Thằng lơ
xe cười khúc khích nói bảo để trên mui không chịu,
chết đáng. Ông tài xế vừa nhìn lên kính chiếu hậu
vừa chửi, đ.m mày còn không xếp chỗ cho người ta ngồi.
Thằng lơ vất vả lắm mới kê được một bao gạo làm
chỗ ngồi cho bà khách. Người đàn ông trung niên ngồi
phía sau (có lẽ là chủ bao gạo) than nhỏ, chết mẹ! Ăn
bao gạo này chắc nghiến răng suốt ngày.
Trong số hành khách, có người đến sớm chiếm chỗ, phải ngồi trên xe cả tiếng đồng hồ. Họ mong từng giây từng phút cho xe chạy. Chiếc xe đầy nhóc người, nhưng ông tài xế (cũng là chủ xe) cứ rề rà để kiếm thêm khách. Không ai dám hối thúc, vì biết có hối thúc cũng vô ích, vả lại cũng không muốn làm mất lòng ông ta, lỡ lần sau đi trễ, bị bỏ lại thì khốn.
Đây
là chiếc xe than duy nhất chạy trên lộ trình này. Chiếc
xe được “cải tiến” từ một chiếc Peugeot 203 cũ kỹ,
không cần sơn phết. Xe chạy mỗi ngày một chuyến, bắt
đầu từ ngã ba Long Thành đến khu kinh tế mới Suối
Quít. Con đường dài trên 50 cây số này bị bỏ hoang từ
thời chiến tranh nên đầy dãy ổ gà. Chiếc xe vừa chạy
vừa lắc lư như một chiếc thuyền con trên sóng. Chạy
được một đoạn thì hành khách có người say sóng ọc
mửa tùm lum, bốc lên một mùi chua lợm giọng, khiến một
vài người khác chịu không nổi phải mửa theo. Lúc này
thì không còn ai để tâm đến những cung cách lịch sự
thường ngày, kể cả cô gái ngồi bên cạnh tôi. Mỗi
lần chiếc xe lắc mạnh, cả người cô ngả lên mình
tôi, một tay choàng qua vai, bấu chặt như bấu vào một
khúc gỗ, không một chút úy kỵ. Cô gái khá đẹp. Nước
da trắng mịn. Khuôn mặt trái xoan. Mũi cao. Miệng nhỏ.
Cặp chân mày dài, cong vút với mái tóc đen huyền phủ
xuống gần tới thắt lưng.
Sau một hồi dằn xóc kịch liệt, chiếc xe chạy qua một khúc đường tương đối bằng phẳng. Cô gái lấy lại tinh thần, sửa lại thế ngồi ngay ngắn. Cô nhìn thoáng qua tôi nhưng không biểu lộ một cử chỉ đặc biệt nào. Tôi cũng tảng lờ, nghiêng người nhìn ra bên ngoài. Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Thời tiết tháng Tư oi bức. Xa xa một vài đám mây trôi lững lờ trên nền trời trong xanh. Một con chim khách nghịch ngợm lượn theo chiếc xe mấy vòng rồi bay thẳng vảo khu rừng, mất hút.
Chiếc
xe ì ạch bò lên một ngọn đồi thoai thoải. Khói từ
hai ống “bô” tuôn ra tạo thành một vòng xoáy bám sát
vào đuôi xe. Bên lề đường, một em bé trần truồng
đứng trước một ngôi nhà tranh lụp xụp, chăm chú nhìn
chiếc xe như nhìn một con quái vật. Một người đàn bà
trạc tuổi năm mươi, mặc bộ bà ba đen ngả màu, kéo lê
một bao than ra đường. Chiếc xe từ từ ngừng lại.
Thằng lơ nhảy xuống nhét vào tay người đàn bà một
xấp tiền rồi bê bao than ém vào đuôi xe.
Chiếc xe gầm lên rồi cố sức trườn tới. Người đàn bà chăm chú đếm từng tờ bạc lẻ. Thằng bé vẫn nhìn theo chiếc xe với một niềm vui hiếm hoi, mỗi ngày chỉ đến với nó một lần.
Chiếc xe gầm lên rồi cố sức trườn tới. Người đàn bà chăm chú đếm từng tờ bạc lẻ. Thằng bé vẫn nhìn theo chiếc xe với một niềm vui hiếm hoi, mỗi ngày chỉ đến với nó một lần.
Chạy
thêm một đoạn chừng vài chục cây số, bỗng chiếc xe
rung lên bần bật như một người bị chứng kinh phong.
Ông tài xế vừa đạp ga vừa chửi thằng lơ luôn miệng.
Hình như ông ta chửi vì thói quen chứ không vì lỗi lầm
hay biếng nhác của thằng lơ. Dù cố gắng đến đâu
cũng vô ích. Chiếc xe vẫn khạc ra những tiếng khằng
khặc rồi tắt phụt. Hành khách trên xe vừa lo vừa mừng.
Ngồi trên xe gần hai tiếng đồng hồ. Đây là cơ hội
tốt để trút đi những thứ thừa thải trong người.
Nhưng xuống xe xong mọi người mới chợt nhận ra, chiếc
xe ác ôn lại chết máy ngay trên một khu láng trống.
Những người đàn ông thì thoải mái, bước ra chừng vài
chục thước là xong. Những bà sồn sồn thì chịu khó ra
xa một chút rồi cũng êm chuyện. Tôi bất chợt nhìn sang
cô gái. Cô ta đứng chết trân tại chỗ, ứa nước mắt.
Tôi biết cô đang gặp khó khăn gì. Nhưng trong trường
hợp này, tôi vô phương giúp đỡ. Nhìn cô ta thật đáng
thương. Bỗng tôi chợt nghĩ ra và móc từ trong túi xách
một tấm vải che mưa, bước đến chìa vào cô. Cô gái
hơi lúng túng nhưng cũng đưa tay nắm lấy miếng vải.
Tôi trở về chỗ, tựa lưng vào hông xe và hơi ngạc
nhiên vì thấy cô gái vẫn đứng tần ngần tại chỗ,
đôi mắt càng đỏ hơn. Tôi biết sự chịu đựng của
cô đã đến mức tột cùng. Cũng may lúc ấy có một
người đàn bà tốt bụng, hiểu ý, nắm tay cô dẫn ra
một chỗ xa xa giúp cô căng tấm vải làm bức màn che. Cô
gái trở vào với một dáng điệu ngượng nghịu, sượng
sùng. Cô nhờ người đàn bà đem trả tôi tấm nylon. Tôi
quay mặt qua chỗ khác để khỏi làm tăng thêm nỗi hổ
thẹn, ngượng ngùng của cô.
Mặt trời đã ngả về phương tây. Ông tài xế và thằng lơ vẫn hì hục với chiếc cỗ máy bất động như một con vật đuối sức nằm lỳ. Dưới sức nóng hanh hao của buổi chiều tháng Tư, mọi người đều mỏi mệt, không ai buồn nói chuyện. Trong cái không gian vắng lặng của vùng hoang dã chỉ còn nghe tiếng va chạm của kềm búa, tiếng chủi bới oang oang của ông tài xế và tiếng càm ràm khe khẽ của thằng lơ. Tôi bước đến ngồi trên một khúc gỗ nằm bên vệ đường, bật lửa đốt thuốc. Thỉnh thoảng tôi đưa mắt nhìn về phía cô gái. Giữa nơi đồng không mông quạnh mà được ngắm một bông hoa kiều diễm thế kia thì còn gì bằng.
Đang
đắm chìm trong mơ mộng thì tiếng máy xe nổ ran, kéo tôi
trở về hiện thực. Hành khách mừng rỡ chen nhau lên xe.
Tôi bước theo sau cô gái vào ngồi ở chỗ của mình.
Nhìn đồng hồ đã 4 giờ 30 chiều.
Xe chạy
thêm một đoạn chừng vài cây số thì đến một con suối
nhỏ, hai bên cây mọc um tùm. Ông tài xế cho xe ngừng
lại, máy vẫn nổ. Thằng lơ cầm cái thùng nhựa vừa đi
xuống suối vừa nói oang oang đi tiểu, đi đái… đi bà
con ơi.
Thì ra đây
là chỗ thường ngày chiếc xe dừng lại đổ nước máy
và cho bà con đi tiểu. Tôi cười thầm, đồ khỉ, cái
máy cũng biết trêu người, không bò thêm một chút, báo
hại con bé phải chịu một trận hổ thẹn đến đỏ mày
đỏ mặt.
Đây
là lần đầu tiên tôi đến khu kinh tế mới Suối Quít,
nên không biết còn bao lâu nữa thì đến nơi. Nếu đến
đó vào ban đêm thì việc tìm nhà sẽ vô cùng khó khăn.
Bất chợt tôi quay sang cô gái hỏi, xin lỗi ở Suối Quít
cô có biết nhà ông Sáu Ngởi không vậy? Cô gái nhìn tôi
với vẻ không được tự nhiên lắm, ấp úng trả lời,
dạ không. Cháu mới đến Suối Quít lần đầu. Bây giờ
tôi mới để ý đến cách ăn mặc của cô gái. Tuy không
sang trọng lắm nhưng rất đúng “mốt” của những cô
gái thị thành. Tôi biết mình bị hớ, nên vội khỏa
lấp. Ồ! thì ra cô cũng như tôi. Nếu mình đến nơi mà
trời tối thì thật là phiền. Cô gái không nói gì, đưa
tay vuốt lại mái tóc.
Càng
vào sâu địa hình càng phức tạp. Những ngọn đồi nối
tiếp nhau phơi mình dưới ánh nắng chiều mùa hạ, chấp
chới, mông lung. Một vài căn chòi lá nằm trơ vơ trên
ngọn đồi với những cuộn khói bốc lên từ những hàng
cao su mới trồng, thẳng tắp. Bất chợt tôi thấy một
đám mây đen xuất hiện ở hướng Tây nam. Đám mây mau
chóng hình thành một trận mưa giông đầu mùa dữ tợn.
Hành khách vội vàng thả tấm màn nylon chống mưa, nhưng
nó không giúp được gì. Những đợt gió thay nhau thóc
vào hông xe, tấm màn nylon giẫy lên phành phạch, ngọn
mưa theo đó tạt vào. Hành khách la ơi ới. Thằng lơ lòn
hai cánh tay xiết chặt vào chiếc thang gắn ở đuôi xe,
gồng mình chịu đựng. Ông tài xế cho xe chạy chậm lại.
Lúc này, mọi người trên xe dường như đã khuất phục
trước sự cuồng nộ của thiên nhiên. Tất cả đều
ngồi co rút, im lặng, trên mặt thoáng hiện một chút sợ
hãi. Có người mấp máy đôi môi, hình như đang cầu xin
một đấng thiêng liêng nào đó phù hộ. Cô gái nép sát
vào người tôi. Với bàn tay rắn chắt của một người
đàn ông chưa tới bốn mươi, tôi lấy hết sức ghì chặt
tấm màn, vừa che cho cô gái vừa che cho mình. Tôi nghe
lòng ấm lại trong cái mát lạnh của trận mưa giông đầu
mùa.
Chiếc
xe ngừng lại trên một khu đất trống. Trời đã nhá
nhem tối. Cảnh vật trở nên mơ hồ lãng đãng sau trận
mưa. Hành khách lần lượt xuống xe đi vào các ngả rẽ,
mất hút. Trên bãi đậu xe, chỉ còn lại tôi, thằng lơ
và cô gái. Tôi đứng nhìn quanh với một nỗi buồn rười
rượi. Không ngờ ông Sáu Ngởi, một thương gia có chút
tiếng tăm ở Biên Hòa, bây giờ phải giam mình trong cái
hóc khỉ ho cò gáy này. Tôi đang lưỡng lự không biết
phải đi về hướng nào thì chợt nhớ đến cô gái. Thì
ra cô ta vẫn đứng tần ngần ở trước đầu xe. Nhìn
dáng vẻ của cô, tôi đoán không phải cô đang chờ người
thân đến đón. Tôi bước đến hỏi, người nhà chưa
đến đón cô à? Cô gái rươm rướm nước mắt, cháu
không báo trước cho chị Mai.
Tôi không
hỏi gì thêm, từ từ rút điếu thuốc đặt lên môi, bật
lửa, những lọn khói cuộn tròn, quấn quít như chưa muốn
tan biến vào không gian. Tôi hỏi, vậy cô tính thế nào?
Cô gái trả lời, cháu không biết.
Tôi ngớ
người vài giây rồi hỏi tiếp, nếu vậy cô có muốn đi
với tôi cho có bạn không? Cô gái nói nhanh dạ muốn. Bây
giờ tôi mới để ý đến cử chỉ và lời nói của cô
gái. Nhìn vào vóc dáng và khuôn mặt, tôi đoán chắc,
tuổi của cô không thể dưới hăm lăm, nhưng không biết
sao cô ta lại có cái vẻ khờ khạo ngốc ngếch như vậy.
Địa
hình khu kinh tế mới Suối Quít vô cùng phức tạp. Những
ngôi nhà không nằm gần nhau mà bị phân cách bởi những
khu vườn rộng lớn, trồng đủ loại hoa màu. Tôi và cô
gái bước theo thằng bé, luồn lách giữa những đám bắp
cao khỏi đầu người. Phải mất gần nửa tiếng đồng
hồ, chúng tôi mới tới được một căn nhà lá nằm cạnh
một con suối nhỏ. Tôi cho tiền thằng bé dẫn đường
rồi bước tới gõ nhẹ lên cánh cửa làm bằng những
mảnh gỗ ghép lại. Nhìn qua khe cửa, tôi thấy một ngọn
đèn dầu treo trên bức vách, tỏa ra một thứ ánh sáng
yếu ớt, bệnh hoạn. Một ông già lọm khọm bước đến
mở cửa. Dù chỉ một chút ánh sáng lờ mờ từ ngọn
đèn dầu chiếu ra, tôi vẫn nhận ra ông Sáu Ngởi. Người
ông gầy hẳn đi, ốm yếu, hom hem như một cụ già tám
mươi. Ông Sáu Ngởi nhìn tôi đăm đăm, dè dặt như nhìn
một tên trộm. Tôi vội lên tiếng, thưa bác, cháu là
Dũng đây.
Cháu mới về. Ông Sáu Ngởi nhướng đôi mắt nhìn tôi từ đầu đến chân rồi vỗ nhẹ lên vai nói, Mô Phật, về được là tốt rồi. Thôi vào đi, đứng đây muỗi cắn. Tôi và cô gái bước vào ngồi trên chiếc sạp bện bằng tre. Ông Sáu Ngởi rót trà ra hai cái tách nói, hai cháu dùng nước. Cháu Dũng lập gia đình rồi à? Thấy ông Sáu hiểu lầm, tôi vội lên tiếng, thưa bác, cô gái này đi chung chuyến xe với cháu. Vì trời tối không tìm được nhà người thân, nên theo cháu đến đây xin tạm trú một đêm, xin bác thông cảm. Ông Sáu Ngởi vui vẻ đáp, ối, ăn thì nhiều chứ ở bao nhiêu. Ông Sáu đang chăm chú vấn thuốc, bất chợt dừng tay nhìn tôi thở dài sườn sượt nói, thật không may, cháu vào chơi mà con Quỳnh không có ở nhà.
Nó theo chồng về dưới Vũng Tàu gần một tháng nay rồi. Nghe ông Sáu nói, tôi thấy người choáng váng nhưng kịp lấy lại bình tĩnh hỏi Quỳnh làm đám cưới lâu chưa bác? Ông Sáu vừa tiếp tục vấn thuốc vừa trả lời có làm đám cưới đám hỏi gì đâu cháu. Thằng chồng nó làm nghề buôn ngũ cốc, thường tới lui Suối Quít để thu mua bắp và các loại đậu. Hai đứa nó quen nhau. Bác thấy con Quỳnh đã lớn tuổi rồi nên cũng ừ cho nó yên bề gia thất. Cuộc sống đã đổi thay, mình đâu còn gì để mà lựa chọn nữa cháu! Nghe giọng nói rầu rầu, chua chát của ông Sáu, tôi đoán được Quỳnh chịu lấy người lái buôn nào đó chỉ vì muốn thoát khỏi cái vùng tăm tối này. Tôi cúi đầu yên lặng, chịu đựng nỗi đớn đau dày vò như có hàng ngàn mũi kim châm vào lòng ngực. Đêm đó tôi và cô gái ngủ lại nhà ông Sáu Ngởi. Nhà chỉ có một cái gường duy nhất có mùng. Ông Sáu nhường cho cô gái.
Tôi và ông ngủ ở cái sạp tre phía trước. Đêm đã khuya, tôi cứ thao thức trằn trọc mãi, không cách nào chợp mắt được. Lâu lâu lại nghe tiếng thở dài của ông Sáu. Tôi biết nỗi đau buồn của ông không kém gì tôi. Ông buồn vì cuộc sống, tôi buồn vì đã mất người yêu…
Cháu mới về. Ông Sáu Ngởi nhướng đôi mắt nhìn tôi từ đầu đến chân rồi vỗ nhẹ lên vai nói, Mô Phật, về được là tốt rồi. Thôi vào đi, đứng đây muỗi cắn. Tôi và cô gái bước vào ngồi trên chiếc sạp bện bằng tre. Ông Sáu Ngởi rót trà ra hai cái tách nói, hai cháu dùng nước. Cháu Dũng lập gia đình rồi à? Thấy ông Sáu hiểu lầm, tôi vội lên tiếng, thưa bác, cô gái này đi chung chuyến xe với cháu. Vì trời tối không tìm được nhà người thân, nên theo cháu đến đây xin tạm trú một đêm, xin bác thông cảm. Ông Sáu Ngởi vui vẻ đáp, ối, ăn thì nhiều chứ ở bao nhiêu. Ông Sáu đang chăm chú vấn thuốc, bất chợt dừng tay nhìn tôi thở dài sườn sượt nói, thật không may, cháu vào chơi mà con Quỳnh không có ở nhà.
Nó theo chồng về dưới Vũng Tàu gần một tháng nay rồi. Nghe ông Sáu nói, tôi thấy người choáng váng nhưng kịp lấy lại bình tĩnh hỏi Quỳnh làm đám cưới lâu chưa bác? Ông Sáu vừa tiếp tục vấn thuốc vừa trả lời có làm đám cưới đám hỏi gì đâu cháu. Thằng chồng nó làm nghề buôn ngũ cốc, thường tới lui Suối Quít để thu mua bắp và các loại đậu. Hai đứa nó quen nhau. Bác thấy con Quỳnh đã lớn tuổi rồi nên cũng ừ cho nó yên bề gia thất. Cuộc sống đã đổi thay, mình đâu còn gì để mà lựa chọn nữa cháu! Nghe giọng nói rầu rầu, chua chát của ông Sáu, tôi đoán được Quỳnh chịu lấy người lái buôn nào đó chỉ vì muốn thoát khỏi cái vùng tăm tối này. Tôi cúi đầu yên lặng, chịu đựng nỗi đớn đau dày vò như có hàng ngàn mũi kim châm vào lòng ngực. Đêm đó tôi và cô gái ngủ lại nhà ông Sáu Ngởi. Nhà chỉ có một cái gường duy nhất có mùng. Ông Sáu nhường cho cô gái.
Tôi và ông ngủ ở cái sạp tre phía trước. Đêm đã khuya, tôi cứ thao thức trằn trọc mãi, không cách nào chợp mắt được. Lâu lâu lại nghe tiếng thở dài của ông Sáu. Tôi biết nỗi đau buồn của ông không kém gì tôi. Ông buồn vì cuộc sống, tôi buồn vì đã mất người yêu…
Thì
ra nhà dì cô gái nằm cách bến xe chỉ vài trăm thước
mà chúng tôi không biết. Mai, người chị họ của cô
mừng rỡ, lăng xăng hỏi han tíu tít. Bây giờ tôi mới
biết tên cô gái là Phượng Vy. Có một điều làm tôi vô
cùng ngạc nhiên là tính tình cô gái hoàn toàn khác hẳn
với ngày hôm trước, nói cười luôn miệng, thỉnh thoảng
lại pha trò thật dí dỏm, khiến mọi người cười vang.
Trò chuyện một hồi, Mai đưa tôi và Phượng Vy dạo
quanh những khu vườn có nhiều loại cây ăn trái. Phượng
Vy nhanh nhẹn như một con sóc, nghịch ngợm, phá phách.
Nhìn cô ta tôi nghĩ thầm, chắc cô gái này chưa hề bị
tình yêu khuấy động, nên cái vẻ ngây thơ, thuần khiết
vẫn còn nguyên vẹn. Mai thì có vẻ trầm lặng hơn, nhưng
vẫn còn giữ được cái dáng dấp của một cô gái thị
thành. Mai đưa chúng tôi đến một con suối nhỏ chảy
ngang một khu đất bằng phẳng đã được khai hoang để
trồng hoa màu. Những luống rau đủ loại xanh mướt trải
dài dọc theo hai bên bờ con suối như hai tấm thảm lụa
xanh, phơi mình dưới ánh nắng mai dìu dịu. Chúng tôi đến
ngồi trên một chiếc cầu nhỏ bắt qua con suối. Dòng
nước chảy êm nhưng đục ngầu vì chứa nhiều phù sa.
Cách đó chừng vài chục thước, một cô gái đang cặm
cụi chăm sóc mấy luống cải mới trồng. Nhìn cái vẻ
lam lũ của cô gái rồi nhìn lại Mai, tôi nghĩ thầm, dù
ở bất cứ thời đại nào, dù ở bất cứ nơi đâu, sự
bất công của xã hội vẫn luôn luôn tồn tại…
Chợ nhóm trên một khu đất trống. Các mặt hàng chính yếu bày bán tại đây hầu hết là những thứ sản xuất tại địa phương như rau cải, thịt heo, thịt rừng và một vài thứ linh tinh khác. Tôi đứng nhìn hai cô gái lăng xăng mua sắm những thứ cần dùng cho buổi cơm chiều. Người tôi mệt nhoài vì suốt ngày lẽo đẽo theo sau hai cô gái. Bữa cơm chiều tuy không thịnh soạn lắm nhưng rất ngon miệng vì tài nấu nướng khéo léo của Mai. Một tô canh mướp, một đĩa mì xào và một đĩa hột gà chiên. Có một điều làm tôi khá cảm động là trước mặt tôi, một chai bia đã khui nắp và một cái ly làm bằng thủy tinh. Tôi nói cám ơn hai cô nhiều, hai cô chu đáo quá” Mai nhanh nhẩu, đâu có gì. À mà không có đá đâu nhé. Ở cái nơi thâm sơn cùng cốc này, kiếm một cục đá còn khó hơn kiếm một cục vàng. Tôi cười xã giao, không sao. Hai cô uống một chút cho vui. Phượng Vy với một giọng trầm buồn khó hiểu đọc nho nhỏ một câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, “Người buồn rượu có vui đâu bao giờ” Mai cười hồn nhiên, nhỏ ơi! Nguyễn Du nói “cảnh” chứ nói “rượu” hồi nào. Phượng Vy nói lí nhí trong miệng dường như chỉ để cho mình nghe. Người buồn thì cảnh rượu gì mà chẳng buồn. Mai trêu tiếp, chứ nhỏ không nghe người ta nói uống rượu giải sầu sao. Ủa, mà nhỏ buồn hay ai buồn vậy? Phượng Vy lườm Mai một cái rồi bỏ vào trong lấy thêm chén đũa.
Tôi
phải ở lại nhà Mai qua đêm vì đến ngày hôm sau, chiếc
xe mắc dịch kia mới trở về Long Thành. Đêm đó ba người
chúng tôi ngồi quanh một cái bàn nhỏ, trò chuyện. Mẹ
Mai, sau một ngày buôn bán thấm mệt đã vào phòng ngủ
trước. Dưới ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn dầu,
khuôn mặt Phượng Vy càng hiện rõ cái nét diễm kiều,
khả ái. Tôi ngồi yên nghe hai cô trò chuyện. Bất chợt,
tôi cảm thấy sự hiện diện của mình lúc này là một
trở ngại cho hai người lâu ngày gặp nhau tâm sự, nên
cáo lỗi bước ra ngoài. Bầu trời đen nghịt. Tiếng con
trùng râm ran như một bản nhạc hòa tấu ngân nga bất
tận… Một ngày hai đêm ở Suối Quít trôi qua như một
giấc mộng. Nỗi đau buồn, hụt hẫng của chuyến đi tìm
Quỳnh vẫn còn nguyên vẹn trong tôi. Từ giã gia đình
Mai, tôi lặng lẽ bước theo hai cô gái tiến về bãi đậu
xe. Vẫn chiếc xe than cũ kỹ mang chúng tôi trở về Long
Thành. Phương Vy ngồi yên, trên mặt loáng thoáng một nét
buồn xa xăm, khó hiểu… Tôi cũng ngồi yên nhìn ra bên
ngoài. Bầu trời trong xanh, một cặp chim rừng đang xoải
cánh bên nhau, bay về hướng mặt trời…