Nhiều
người chỉ biết Hoàng Trúc Ly qua những bài thơ đăng
trên các báo, các tạp chí từ 1955 và về sau là thi tập
duy nhất của anh: “Trong Cơn Yêu Dấu”. Tác phẩm thi ca
này do nhà xuất bản Hướng Dương trên đương Lê Lợi
ấn hành năm 1963, bìa của họa sĩ Trịnh Cung. Cuốn sách
này còn khiêm nhường hơn nhiều so với số trang trong tập
thơ “Bi Ca” của Hoài Thương - người phụ trách trang
thơ và biên tập viên thường trực cho bán nguyệt san
Thời Nay, phát hành vào cuối năm 1962. TCYD chỉ vỏn vẹn
có 38 trang với 22 bài thơ in trên khổ giấy lớn 21x25.
Còn về sách, theo tôi, chỉ riêng trong năm 1967 anh đã cho ấn hành - ít nhất, 2 tác phẩm văn là “Tiếng Hát Lang Thang” và “Huyền Sử Một Kiếp Hoa”. Ở hải ngoại tôi còn biết một tác phẩm khác của anh là cuốn “Trạng Quỳnh” cũng đã được một nhà xuất bản ở Houston - TX in lại vào năm 1984. Chưa kể những tập truyện cổ tich, truyền kỳ, sách thiếu nhi... hấp dẫn, luôn lối cuốn đọc giả do các ông chủ nhà in người Tàu cho phát hành từng kỳ, hàng tuần từ đầu thập niên 60.
Đó
là giai đoạn các loại truyện định kỳ này được phát
hành rộng rãi, bán với giá rẻ, nên rất ăn khách. Nhất
là những truyện của Nghiêm Lệ Quân, Người Khăn Trắng,
Sa Giang TTK, Anh Thuần tức Hoàng Long ... Chỉ riêng truyện
Lời Thề Trong Đền Rắn và Ma Hời của anh Anh Thuần
cùng các truyện võ hiệp Tây Sơn Nhạn của Sa Giang Trần
Tuấn Kiệt cũng đã được một ông chủ người Hoa tại
đường Phan Đình Phùng, gần trường Aurore cho tái bản
mấy lần trong 2 năm 67-68. Sách các thể loại bình dân
này thường được bán đứt. Người viết lấy tiền một
lần, nên các ông “xì thẩu” kia tha hồ in đi in lại
mà các tác giả không vì thế được chia hưởng thêm
tiền tác quyền cho mỗi kỳ tái bản.
Cũng như Trần Tuấn Kiệt, sách của HTL viết xong cũng thường giao cho ông Khai Trí, bởi vì ông này là mạnh thường quân chính của 2 người. Không phải vị chủ nhà sách lớn này luôn luôn cho in ấn các tác phẩm của 2 anh, mà vì thấy họ luôn thiếu thốn nên ông tìm cách trợ giúp, ngay dù cả khi họ “ham vui” quên cả việc sáng tác, nhất là HTL. Bởi từ đầu thập niên 60 ngoài việc thích rượu anh còn dấn thân vào trò “hít-tô-phe” tức nằm bên bàn đèn “hít cho phẻ” với ông Ngọc Tú - tức nhà văn Ngọc Thứ Lang, người dịch cuốn "Bố Già" rất nổi tiếng và được nhiều người hâm mộ thời bấy giờ.
Hoàng Trúc Ly tên thật là Đinh Đắc Nghĩa, sinh năm 1933 tại Đà Nẳng, nguyên quán Bình Định. Sau khi đậu bằng tú tài Pháp [Baccaleauréat complet] anh đã ghi danh vào trường Luật, nhưng chẳng được bao lâu thì bỏ học vì không khí chật hẹp, nóng bức, chẳng thoải mái của các giảng đường. Anh là người trầm lặng, hiền hòa, ít thố lộ về cuộc đời riêng tư của mình và gia đình. Nhưng khi gặp bằng hữu thân thiết thì anh cười, mừng ra mặt, ánh mắt sáng ngời. Theo tôi, có thể bởi vì anh thường sống cô độc, trầm tư một mình, nên đôi lúc sợ cô đơn, cần có bạn bè để hàn huyên cho vơi bớt khỏang trống trong tâm hồn. Gặp gỡ, chung vui xong thì anh lại trở về với sự trầm mặc, tịch liêu cố hữu của mình.
Dù
ở với thân phụ anh là cụ Đinh Thúc Kiện trong khu Ủy
Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến - nằm trên đường
Cống Quỳnh, hay sau này anh thuê gác trọ bên đường
Nguyễn Cư Trinh, HTL vẫn hay một mình đi bộ lang thang
dưới bóng chiều tà, rồi tiện đường thì ghé ngủ đêm
với bạn bè. Anh là người giao du rộng rãi, quen biết
gần như hầu hết các văn nghệ sĩ, lại được họ quí
mến bởi tánh hiền lành, chân thật của anh, vì vậy ai
cũng sẳn sàng vui vẻ tiếp đón. Chẳng hạn như nhà Hoài
Điệp Tử ở khu Bùi Viện, nhà anh Phượng Hải ở khu Lò
Gốm – Bình Tiên, Hồ Thành Đức ở Phan Thanh Giảng,
Trần Tuấn Kiệt ở đường Phan Đình Phùng... và thỉnh
thoảng ngủ lại nhà tôi khi quá chén. Những lần như vậy
thì sáng tinh sương anh đã bỏ đi trong khi tôi còn đang
ngon giấc.
Kế đình Phú Thạnh không xa, gần căn gác trọ của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, có ông giáo tên Tư người Long An. Ông là tay ngâm rượu thuốc, rượu mít nướng nổi tiếng – mà cả HTL và Kiệt đều cho rằng rượu của ông giáo này rất thơm ngon, tuyệt hảo. Do đó mỗi dịp có mặt anh Anh Thuần hay tôi ở nhà là 2 anh tha hồ uống. Anh Việt Thu, hai anh Phạm Lê Phan và Tường Linh cũng thích và khen 2 loại “nước mắt quê hương” đặc sắc này. Cứ mỗi lần anh Linh và anh Phạm Kiệm tức kịch tác gia PLP rủ tôi đi câu ở ven đô là họ luôn nhắc tôi mang theo cả lít cho các anh “giải lao”.
Tôi
thì chịu, không dám thử, vì ngửi qua cũng biết độ
rượu rất cao, cay nồng. Bởi vậy khi phải đối tửu,
thì các anh ấy khề khà cạn sạch 3, 4 chung, tôi cũng
chưa nốc xong ly 33 của mình. Tôi còn một điều dở nữa
là rất kỵ mấy món “mộc tồn” hay “nai đồng quê”,
thịt rùa, rắn, tiết canh, trong khi các anh coi là các món
nhấm khoái khẩu, hàng cao cấp. Vì sự nhát gan ấy nên
anh Phạm Lê Phan - người lớn tuổi nhất trong đám,
thường mắng đùa: “Chơi với cậu chán bỏ mẹ. Đi câu
thì bị cá chê mồi, uống với nhau thì cậu sợ món này,
món nọ, chẳng được cái tích sự gì cả. Người ngơm
gì mà khuyên bảo, dạy dổ hoài cũng không biết phục
thiện.”
Tửu lượng của tôi thuộc hạng rất tồi, nên thường bị thân hữu liệt vào hàng “lục lục thường tài”. Trong khi những bạn thơ, văn khác của HTL đều là các tay hủ chìm, hủ nổi mà tôi chẳng mấy khi dám gặp, đụng độ. Tôi sợ cái kiểu uống liên tu bất tận của nhiều vị kiện tượng trong số các tay văn nghệ sĩ này. Chẳng hạn như: Trần Tuấn Kiệt, Phan Yến Linh, Hoài Điệp Tử, Nguyễn Thụy Long, Phạm Quốc Bảo, Bùi Ngọc Tuấn, Dương Trữ La [Tâm Đạm], Khánh Giang, Phượng Hải, Anh Thuần, Anh Hợp, Thầy Khóa Tư, Tạ Ký, Hoàng Anh Tuấn, Hải Phương, Tô Kiều Phương, Hoàng Thắng, Nguyễn Thu Minh, Anh Việt Thu, Thiên Hà, Lâm Tường Dũ, Hải Bằng, Phương Triều...
Vả lại, trước năm 71 tôi còn bận quân vụ, lại chỉ là kẻ viết lách tài tử, làm báo trang trong tùy hứng, bằng nghề tay trái. Khác hẳn với đa số các anh kể trên là dân viết lách, sáng tác chuyên nghiệp. Bởi vậy, tôi chẳng mấy khi góp mặt trong các cuộc vui đông người. Năm 72, sau khi tôi được chuyển về làm công chức không lâu, thừa dịp chính phủ ra nghị định bắt buộc quân nhân, công chức nếu muốn tiếp tục hành nghề báo chí thì phải xin phép, tôi ngưng luôn. Dù lệnh này theo tôi biết chỉ mang tính chất tượng trưng, chẳng có mấy người tuân thủ, chấp hành. Từ đó tôi ít gặp lại anh em vì sợ sẽ bị bị rủ rê trở lại trò chơi văn nghệ mà tôi đã hết hứng thú. Ngay cả với các anh Hoàng Trúc Ly,Tường Linh, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, TTK, Phạm Lê Phan, Anh Việt Thu là những người tôi rất thân kính.
HTL
tuy ít nói nhưng tính dể chịu, thường hay kể chuyện
vui, tích lạ, nên 2 đứa con tôi và cháu gái giúp việc
cho gia đình tôi rất thích. Mỗi lần bác Hoàng tới nhà
là các cháu gái mừng rở, lo phục dịch bia, cà phê chu
đáo, ngay cả những lúc tôi vắng nhà. Cũng có khi anh đi,
biền biệt vài ba tháng, chẳng thấy trở lại thăm viếng.
Nhớ anh, tôi chỉ cần chạy đến quán café Năm Dưởng
nằm gần bên góc Nguyễn Thiện Thuật - Hồng Thập Tự,
kề cận nhà Tam Ích tiên sinh là có thể gặp anh. Còn
không thì cứ đến các quán cốc bên lề dọc theo các
đường Gia Long, Phạm Ngũ Lảo, Nguyễn Cư Trinh hoặc khu
chợ Đủi... Đó là những địa điểm anh thường đến
chung vui cùng thân hữu, nếu anh không bận đi chơi xa. Anh
là một lãng tử, sống độc thân, độc hành, giản dị,
nên khi có anh em nào rủ đi là tùy tiện đi, bất kể là
đi miền Đông, miền Tây hay miền Trung.
Buổi trưa khi cảm thấy trống vắng, anh thường vào nằm nghỉ trên ghế đá trong công viên Tao Đàn - góc đường Lê Văn Duyệt và Hồng Thập Tự. Trần Tuấn Kiệt, Anh Thuần cho biết HTL ngoài viêc viết sách, đôi khi còn làm việc bán thời gian cho Câu Lạc Bộ Cercle - tức sân quần vợt trên đường Hồng Thập Tự, nằm sát bên công viên Tao Đàn này và sau lưng dinh Độc lập. Anh chẳng đề cập đến, nên tôi cũng chẳng hỏi.
●●●
Hoàng
Trúc Ly qua đời ngày 23 tháng 12 năm 1983 [nhằm ngày 20
tháng 11 âm lịch] tại Sàigòn vì một người lái xe bất
cẩn đụng phải khi anh băng qua đường.
Mặc
dù giao du thân thiết với HTL nhiều năm, tôi chỉ vừa
được biết tên thân mẩu anh là bà Đào Tiểu Tố - bút
hiệu Như Cúc. Bà là cháu nội của vị danh sĩ Đào Tấn
[1845-1907], Bà được sinh ra tại Bình Định năm 1910 và
hiện sống tại SG. Dưới đây là bài thơ bà Đào đã
làm để thương khóc con:
NGÀY GIỖ CON
(Đắc Nghĩa Hoàng Trúc Ly)
Gió bạt mưa ngàn con ở đâu - Nắng hanh ngọn cỏ chắc con sầu
Con ơi! mẹ nhớ ngày sum hiệp - Dáng trẻ thân gầy áo sổ bâu.
Đắc Nghĩa con ơi đã mất rồi - Ớ tình ớ cảnh ớ con ơi
Trở trời trái nắng ai săn sóc - Trẻ dại con đành bỏ mẹ thôi.
Mồ con giờ mẹ đã xây rồi - Thôi thì con ráng ngủ đi thôi
Ngàn thu vĩnh biệt con xa mẹ - Tóc bạc da mồi đã vắng con.
[Đào Tố Tố]
Em gái anh là cô Đinh Thị Xuân Hương tức nhà thơ Đinh Hương vừa qua đã gom góp thơ anh để xuất bản, mà tên sách nghe thật lạ lùng: “Người Lớn Từ Biệt Trẻ Con”. Trong thi tập mới này có một số thơ mà người xuất bản cho rằng đó là các tác phẩm của HTL chưa phổ biến. Tôi đọc qua vài bài và nhận thấy không giống phong vị của anh bao nhiêu nên không muốn đề cập đến.
Quanh
HTL có nhiều huyền thoại về cuộc sống của anh và
những nhân vật nữ trong các bài thơ của anh, nhất là
nhân vật Hoàng Lan mà anh ví von là “hoa của trăm hoa”:
◘ HOÀNG LAN
Có
phải vì em đang gỡ tóc - Cho mây từng sợi rối chân
chim -
Có
phải hoa bay đầy cánh bướm - Vì em thay áo mái tây
hiênÔi mới hôm nào như hôm qua - Tay ai bùa phép nắm đôi ta -
Như nắm mùa đông hơ ngọn lửa - Cho tuyết đầu non chảy máu ra
Ôi mới hôm nào như hôm kia - Con đường chở nặng những đêm khuya -
Cho nên bóng tối bay thành khói - Ánh mắt mờ sương lạc lối về
Ôi có hôm nào là hôm nay - Anh ghen vì gió đã choàng vai
Em đi như vẽ trên đường nắng - Em nói như đàn trong miệng ai
Anh là dòng sông mơ chín suối - Em là mặt trăng thèm mặt trời -
Cách trở bốn mùa vây trái đất - Còn nghe đau xót thuở nào nguôi?
Họa
sĩ Hồ Thành Đức cho biết, anh đã từng đi cùng HTL đến
nhà cô nữ sinh này. Cô sống tại Gò Vấp và đặc biệt
là có mái tóc rất dài óng ả, mượt mà, nhưng nhan sắc
thì chỉ “thường thường bậc trung”. Đến đó, họ
Hoàng không vào hay gõ cửa mà chỉ đứng lặng lẽ ngoài
đường nhìn vào, rồi ung dung bỏ đi. Còn một giai thoại
khác mà nhiều người thường nhắc nhở đến, sau khi 2
bài thơ lục bát tuyệt hảo dưới đây ra đời:
◘ CA SĨ 1
Từ
em tiếng hát lên trời - Tay xoa dòng tóc, tay vời âm thanh
-
Giọt
buồn chẻ xuống hồn anh - Lắng nghe da thịt tan tành xưa
sau
Trời
em tiếng hát lên từ - Âm ba tóc rối lững lờ vòng tay
Áo
dài lùa nắng vào mây - Dấu chân hồng nhạn rụng đầy
gió sương.● chân dung Thanh Thúy qua Thanh Trí. |
Hai
bài thơ lục bát ngắn này nhiều người cho là HTL viết
tặng nữ ca sĩ Thanh Thúy - hình minh họa trên, tranh vẽ
chân dung TT của nữ họa sĩ Thanh Trí. Từ đó về sau,
giới báo chí, văn nghệ đã đặt cho giọng ca Thanh Thuý
nào là “tiếng hát liêu trai”, “tiếng hát khói sương”
Dường như danh hiệu đầu tiên là do thi lão KG Hà Huy Hà
phong tặng, cũng như anh đã gọi nữ ca sĩ Phương Dung là
“con nhạn trắng Gò Công”. Bên cạnh “tiếng hát lên
trời” của HTL còn có “tiếng hát lúc không giờ” là
danh hiệu mà nhà văn Mai Thảo đã tặng cho cô ca sĩ có
giọng ca liêu trai, ngọt ấm, quyến rủ này. Lúc cô này
còn ở trong một căn nhà nhỏ tại phường Bình Hưng, thị
xã Phan Thiết và chưa nổi danh thì tôi. Lê Mịnh Ngọc,
Trần Thiện Thanh thỉnh thoảng xách đờn, sáo đến nhà
cô để dợt cho cô tập hát.
Thường xuyên nhất phải kể là LMN người học cùng lớp với tôi tại trường trung học công lập Phan Bội Châu.
Thường xuyên nhất phải kể là LMN người học cùng lớp với tôi tại trường trung học công lập Phan Bội Châu.
Nhưng cũng có người cho là anh viết về nữ ca sĩ Thái Thanh. Tôi và Trần Tuấn Kiệt đã yêu cầu anh xác nhận, nhưng HTL chỉ mỉn cười nhỏ nhẹ đáp: “thơ moa làm xong ai muốn nhận là moa viết tặng riêng cho họ thì cũng chẳng sao, càng tốt.” Còn anh Anh Thuần thì cho rằng 2 bài thơ trên HTL viết tặng một nữ danh ca khác mà tôi không tiện nêu tên. Cô này là vợ của một nhạc sĩ nổi danh. Vợ chồng họ là chủ một nhà sách và nhà chuyên xuất bản nhạc lớn, nằm gần đầu đường Trần Hưng Đạo, quận 1 mà anh AT chơi rất thân với cả 3 người trong cuộc.
Còn một bài nhị thập bát tú khác mà có người cho là CA SĨ 2:
mùa
Xuân còn gì thưa em – sáu giây rét mướt chưa mềm trăng
khơi -
cô
đơn đỉnh núi gần trời – nghiêng vai xin khoác nụ cười
áo xanh.
Tôi
đồng ý với quan điểm của TTK để cho rằng bài này
vốn mang tựa “Nghĩ Về Tỳ Bà Hành”. Thiển nghỉ,
những dòng thơ trên diển tả về một nhạc khí cỗ thì
đúng hơn là nói về dung nhan của một nàng ca sĩ. Nhưng
cũng không biết chừng chính anh HTL tự sửa lại tên bài
thơ. Bởi nhiều tác giả cũng hay làm điều này sau khi
thơ mình phổ biến một thời gian. Nhuận sắc, thay thế
một số chữ, vài câu trong bài thơ là chuyện thường
thấy, do đó ngay một bài thơ đôi khi chúng ta thấy có
đến mấy dị bản.
Thơ
HTL có nhiều bài đầy chất sáng tạo, mới mẽ, mang sắc
thái tuyệt mỹ, xuất thần với những thi ngữ hay mỹ từ
pháp, thi ảnh tinh khôi, sống động. Thơ anh nhiều nhạc
tính, âm vận uyển chuyển, dể rung cảm. Thơ HTL còn chan
chứa chất lãng mạn trữ tình và tiềm tàng ý
niệm hoài nghi ray rức, đôi khi ẩn lộ, chan hòa nét
phóng đảng, an nhiên:
◘ HÀNH
TRÌNH
1.
tôi nay đi giữa hoang đường - niềm đau thân thể tủi buồn hai vai -
giật
mình nước mắt tương lai - ngày qua và tiếng thở dài
xuống thu tôi nay đi giữa hoang đường - niềm đau thân thể tủi buồn hai vai -
2.
toa
xe cửa khép khung trời - người đi môi đỏ run lời tiễn
đưa -
tóc
dài xõa mộng ngày xưa - vết thương kỷ niệm bây giờ
lại đau 3.
khuya đi dù biết về đâu? - nghiêng vai còn mãi tiếng sầu vọng âm -
đường xưa trải nhớ nhung thầm - ngôi sao yểu mệnh căm căm cuối trời
4.
qua đây từng giọt buồn phiền - mắt em cổ thụ thâm xuyên gọi mời -
bãi hoang cồn dựng bể khơi - xuôi tay xin gởi miệng cười mộng du
5.
tôi ơi tôi mãi tôi còn - trái tim bé nhỏ nỗi buồn chung thân -
nhớ gì vết cỏ bàn chân - lối đi thơ dại đêm gần tịch liêu.
Nhà
thơ Phạm Công Thiện đã từng phát biểu: "Thơ
Hoàng Trúc Ly có ma lực kỳ quái của những câu phù chú.
Đối với Hoàng Trúc Ly, ngôn ngữ hãy còn mới tinh. Mỗi
chữ đều mang một linh hồn, mỗi chữ là một sinh vật.
Tôi gọi Hoàng Trúc Ly là thi sĩ lớn, là nhà thơ bậc
thầy của thi ca hiện đại".
Lời
nhận định trên quả đã diển tả trọn vẹn về nét tài hoa của nhà thơ lỗi lạc họ Hoàng tức Đinh Đắc
Nghĩa này.
●●●
● bìa Trịnh Cung |
Trong
Cơn Yêu Dấu của anh được ấn hành năm 63 và ra mắt
sách tại quán Xinh Xinh trên đường Phan Đình Phùng. Vì
chỉ tổ chức trong vòng thân hữu nên chẳng có bao nhiêu
người được mời tham dự. Theo Hải Phương, người bạn
thơ thâm giao của HTL, thì buổi ra mắt sách này đã được
tài trợ bởi một nữ thương gia cư ngụ tại Phan Thiết.
Vị nữ nhân này vốn là người quen thân với thi sĩ Bích
Khê và là người rất ái mộ thơ HTL.
Khi
đề cập đến TCYD học giả Tam Ích - một trong những
người sớm phát hiện tài năng cũa anh, đã nói: “Hoàng
Trúc Ly đã và đang làm mọi người ngạc nhiên ít nhất
là một lần nữa về thiên tài của mình.”
Giờ đây, nhờ mẹ và em gái anh, chúng ta có thể xác định được ngày sinh với tử của anh một cách rõ ràng: Hoàng Trúc Ly sinh ngày 14 tháng 4 năm 1933 và qua đời 2 ngày trước lể Giáng sinh năm 1983 như đã viết ở trên, chứ không phải như vài cây bút hải ngoại đã nhầm lẩn loan truyền bấy lâu nay: 1937-1985.
Tôi
quen anh trong một dịp tình cờ. Số là vào đầu năm
1963, vừa lãnh lương xong, vừa được nghỉ phép, nên khi
từ trường Kỵ Binh Thiết Giáp/Thủ Đức về SG, tôi bèn
chạy ngay đến tòa soạn Phổ Thông rủ TTK và Nguyễn
Thu Minh đi sang tuần báo Ngày Mới của nhà báo lão thành
Cồ Việt Tử [Nguyễn Duy Hinh] để kéo thêm anh Anh Thuần
đi Kim Sơn. Thu Minh vì là Thư ký Tòa Soạn, hôm đó lại
gặp ngày báo sắp phát hành nên chỉ có Kiệt theo tôi.
Đến báo Ngày Mới thì thấy AT và HTL đang ngồi vừa
nhâm nhi cà phê vừa đọc báo. Đó là lần đầu tiên
tôi quen biết HTL qua sự giới thiệu của anh tôi và TTK
dù trước đó tôi đã đọc và thuộc lòng nhiều thi phẩm
của anh. Lúc ấy, tôi nhận thấy anh hơi gầy yếu, xanh
xao, tánh tình hòa nhã, khiêm tốn và đặc biệt là dể
thân thiện. Đôi mắt anh tuy trong sáng nhưng đôi lúc như
tiềm ẩn nét mang mang xa vắng.
Sau khi thôi làm việc một thời gian tại Ohio, đến năm 2005 nhân cơ hội các con tôi vừa cho xây cất xong ngôi nhà mới ở bên kia cầu chử Y, tôi bay về để xem có thể dưởng hưu ở Saigon hay không, đồng thời giúp thân nhân lo việc dời nghĩa trang giòng họ ra khỏi thị trấn Long Hương - nơi quê nhà, theo lệnh của chính quyền CS địa phương.
Gặp
lại 2 anh TL và TTK tôi mới biết được Phạm Lê Phan
của phòng Văn Nghệ QĐ năm nào đã mất lâu rồi tại
một khu “Kinh tế mới” hẻo lánh, trong vùng rừng núi
Định Quán. Còn HTL mấy năm sau cũng nối gót “đi”
theo kịch tác gia họ Phạm. Trước khi tôi về lại miền
trung du Hoa kỳ, TTK và tôi mỗi người đã làm một bài
thơ tưởng niệm HTL. Dưới đây là những dòng tôi đã
cảm xúc viết cho anh - một hiền huynh chí tình, mà tôi
luôn kính thương, quí mến:
◘ bài
tưởng niệm Hoàng Trúc Ly
gởi Trần Tuấn Kiệt
gởi Trần Tuấn Kiệt
rượu
nồng tưởng niệm cố nhân - ngàn chung cay ngọt một lần
từ ly
hỏi người, người đã bỏ đi - nằm trong đáy mộ có gì nhớ thương -
tóc
bồng nẻo vắng cô đơn - một thân lưu lạc u hồn lạnh
mê
người
xa chưa lạc lối về - sao hiền huynh chẳng chờ nghe đôi
lời -
ngủ
yên Hoàng Trúc Ly ơi - chuyển thân hóa kiếp đời đời
cuồng say
rượu ngon còn một chai này - hãy chia nhau chút men cay thâm tình -
cõi
trần dẫu có điêu linh - cõi hư vô hẳn hồi sinh non
Bồng. [PBTD]
●●●
Sau
khi biết tin HTL đã nằm xuống tôi cứ nghỉ đến 2 câu
thơ vương vương niềm hoài niệm của cụ Vũ Đình Liên:
“Những
người muôn năm cũ . Hồn ở đâu bây giờ ?”.
Rồi chạnh nhớ tới Anh Việt Thu, Phạm Lê Phan, Dương
Trử La... nhớ những người bạn đã âm thầm ra đi mang
theo những kỷ niệm đáng trân quí, khó quên của một
đời người. AVT thì vĩnh viễn yên giấc trong một khu
vườn xoài tại làng An Hữu quận Giáo Đức cách cầu Mỹ
Thuận không xa. PLP thì chắc vẫn đang lạnh lẽo nằm
dưới mộ trong một sơn khê vắng vẻ, thưa thớt bóng
người. HTL may mắn hơn vì được chôn cất gần thành
phố nơi mà gót chân anh đã từng lưu dấu biết bao năm
dài qua những ngày mưa, ngày nắng.
Nếu chúng ta tin rằng con người sau khi mất đi phần linh hồn vẫn còn vấn vương nơi trần thế hoặc siêu thoát về một cõi vô minh miên viễn nào đó, thì bây giờ chắc hẳn thân xác các anh hẳn đã tan hoá trở thành cát bụi trong lòng đất, vậy thì hồn các anh giờ này đang ở đâu? Họ có còn nhớ đến những ân tình, hệ lụy trong tiền căn để quanh quẩn, quấn quít bên những người thân yêu? Hay là họ đã hoàn toàn trút bỏ, quên lãng quá khứ để linh hồn mình bềnh bồng phiêu bạt theo cỏ nội mây ngàn, vui với tiếng chim hót, gió ru trong cõi an nhiên vô ưu, vô úy?
Giáo sư Tạ Ký - tác giả thi tập “Sầu Ở Lại”, đã từng nhận xét về những vần thơ mang niềm cay đắng như 2 bài không có trong tập TCYD dưới đây của thi sĩ họ Hoàng như sau: “Tạ Ký còn can đảm kiên nhẫn viết ra một trang năm ba chục câu thơ. Đến như Hoàng Trúc Ly, ông chỉ viết bốn câu, sáu câu. Ấy bởi vì cái thứ rượu ông dọn ra là cái loại rượu quá chát. Kẻ tửu lượng thượng thừa, cũng chỉ nhấm vài giọt là choáng váng tối tăm mày mặt.”
◘ Ở Sài Gòn
Soi gương lạ mặt bao giờ - Nửa đêm lãng đãng tôi mờ bóng tôi -
Ở
đây vụng dại với người - Nghiến răng nhai mãi nửa
lời vô duyên.
◘ Cõi Dấn Thân
Tôi còn yêu cho biển còn xanh - Mây còn bay cho chim chắp cánh -
Ngựa
què rồi em cởi lưng anh - Tôi cứ yêu khốn nạn cứ cười
-
Chim
cứ bay cho mây gãy cánh - Em chết rồi ai ám sát tôi ?
Nhiều
người đã nói, đã phân tích, nhận định về thơ HTL,
nên trong bài này tôi chỉ đề cập đến anh qua những
giao tình cá nhân, những kỷ niệm một thời giữa tôi và
con người có một cuộc sống trầm lặng, phiêu dật này.
HTL là một thi sĩ lỗi lạc, đọc qua thơ anh ai cũng dể
cảm nhận những điểm nổi bật, những ẩn dụ sâu sắc
để tự đánh giá sự khác biệt giữa thi ca của anh với
thi ca của những người hữu danh cùng thời, trong giai
đoạn 50-75.
Viết đến đây tôi nghĩ, tôi có thể mượn những lời nhận định về thơ HTL của nhà phê bình văn học Đặng Tiến để kết thúc bài này:
“…Thơ
Hoàng Trúc Ly có cái bình thản âu yếm của kẻ đã đạt
tới đạo, hiểu theo nghĩa Đông Phương: y hồ thiên lý,
nhân kỳ cố nhiên. Văn chương hiện đại là một thứ
văn chương sáng suốt, nghĩa là một thứ gương phản
chiếu. Thơ Hoàng Trúc Ly trái lại chỉ là một khối thủy
tinh, không trả lại hình ảnh nào, không đón đợi mà
cũng không phải là không đón đợi, chỉ biết thích ứng
với tất cả những gì đến với mình. Như thế tâm hồn
Hoàng Trúc Ly đã đạt đến hạnh phúc tối cao, đã liên
hợp được cái ngã và cái vô ngã trong sự thong dong
không bờ bến.
…Trong
thi ca Hoàng Trúc Ly giữ một địa vị đặc biệt. Địa
vị của thi sĩ dường như vượt lên hẳn các trường
phái thi ca; ngôn ngữ của ông tươi mát, mới mẻ, trong
sáng, ở một giai đoạn mà Tây phương cũng đang biến
thi ca thành tiếng hát.
…Trước
cuộc đời, Hoàng Trúc Ly chỉ đóng vai người khách hào
hoa phong nhã. Thi sĩ đã trở lại đời sống thanh thoát
của nhà hiền triết Đông Phương. Ngôn ngữ tân kỳ ảnh
hưởng của Tây phương, nhờ đó, đã chắp cánh để bay
vút lên cao.”
[Đặng
Tiến * Hoàng Trúc Ly: Nụ cười trong và đôi mắt sáng]
Diển
dịch thêm thơ của anh, của chàng thi sĩ tài hoa, khiêm
tốn này – theo tôi - là một điều phí phạm. Phí phạm
thêm thì giờ của người đọc.
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG – Lausanne 2007
Dưới đây là một số thi phẩm, những áng thơ hay, tiêu biểu
của Hoàng Trúc
Ly được nhiều người ưa thích, truyền tụng:
◘ Hàng Cây
Bên Ðường
người yêu tóc xõa tròn vai - nửa đêm da thịt quên cài áo khuya -
xác thân rã
mục lời thề - mùa đi lá rụng đường về xuân thu
◘ Vĩnh Biệt
rồi mai khởi sự xa đời - chuyến xe trăm tuổi đưa người nghìn năm -
trăng sao bốc
cháy chỗ nằm - áo xanh mây lá vết bầm núi non.
◘ Nằm Mộng
Thấy Nữ Sinh
tặng HOA của trăm hoa
tặng HOA của trăm hoa
Ta từ giấc
mộng bước gần em - Đường phố đầy trăng hay mặt
trời chìm -
Ô hay con gái
bay nhiều quá – Hai cánh tay mềm như cánh chim
Như cuống của
hoa như cội của cành - Em đến bao giờ là em của anh -
Thôi đã vô
cùng cô liêu bóng cả - Như chim xa rừng tội nghiệp rừng
xanh.
Tuyệt mù giấc mộng mỏng như sương - Vai áo hào hoa tê tê bụi đường -
Ra đi ta đắp
lên sông núi - Trời rộng sông dài nỗi nhớ thương.
◘ Gặp Người
Em
Những người
xưa đi rồi không về nữa - Một mình anh lại gặp một
mình em -
Chiều lửng lơ
nghe nắng rụng bên thềm - Em cúi mặt mắt buồn ươn ướt
đỏ
Nhà anh nghèo, anh đau tim anh yếu phổi - Đời lạnh lùng bốn hướng gió và mưa
Ta lạc nhau từ em còn bé nhỏ -Anh thương em câm nín đến bao giờ.
Bởi vì đâu da em xanh giá rét? - Nắng rưng vàng lên mái tóc mồ côi -
Ngày giặc giã
quê hương mình mỏi mệt – Mười năm qua hình ảnh có
ngậm ngùi [*]
Nhà anh nghèo,
anh đau tim anh yếu phổi - Em bềnh bồng, anh phiêu lãng về
đâu -
Không dĩ vãng
cho đêm dài đợi sáng - Không mai sau cho nước chảy qua
cầu
Em bảo anh người đi không trở lại - Nấm mồ ai như giọt lệ chưa tan -
Ngọn gió nào
mang anh vào mộng mị - Em giang hồ làm tiếng hát lang
thang.
Ta đến bên nhau sao chùng bước mỏi - Lời sắp xé môi sao bỗng nghẹn lời -
Anh nhớ em: núi
cao càng hiu hắt - Anh thương em: máu vọt bốn phương
trời.
[*] Bài đăng
trên tạp chí Cải Tạo năm 1956 đến đây là dứt. Theo
Trần Tuấn Kiệt
12 câu sau
HTL đã làm thêm vào giữa thập niên 60 khi anh cần phổ
biến lại.