Đào Hải Triều |
(Dziệt
Cộng giết người Tết Mậu Thân ở Huế - Viết theo lời kể của Hòang Đông)
Anh
Hoàng Đông hiện ở Nam Cali, kể:
Anh
Hoàng Đông, nhà ở số 55 đường Võ Tánh, ngang ngã ba Võ
Tánh và Hồ Xuân Hương kể rằng sáng sớm mồng hai tết,
nhìn ra đường anh thấy hai toán Dziệt Cộng đi hai bên
đường, từ hướng Bãi Dâu lên. Toán Dziệt Cộng nầy
không mặc đồng phục, đội mũ tai bèo và mang súng AK
(sau nầy anh mới biết đó là súng AK.)
Anh
báo động cho người trong nhà biết, Dziệt Cộng đã vào
rồi.
Năm
đó, anh Hoàng Đông đang học chứng chỉ “Toán đại
cương” (mathematique general) ở viện đại học Huế để
chuẩn bị thi vào đại học sư phạm toán, ở và dạy
học cho mấy đứa nhỏ tại nhà một người anh bà con
bạn dì tên là Tôn Thất Tùng. Ông Tùng là nhân viên tại
văn phòng ông Hà Nguyên Chi, phó ty cảnh sát Thừa Thiên -
Huế. Ngôi nhà nhà nầy nằm trong một khu vườn lớn của
Bà Đồng. Cũng trong khu vườn nầy, còn có nhà ông Dương
Chính Vĩnh, quận trưởng Cảnh sát.
Thấy
Dziệt Cộng tới, anh Tùng lấy bộ áo quần ta, áo đen
dài, quần trắng, lén qua nhà ông Vĩnh rồi cả hai leo
hàng rào, đi theo con đường tắt lên trốn ở Chùa Áo
Vàng (tên chữ là Tăng Quang Tự).
Chùa
Áo Vàng cũng nằm trên đường Võ Tánh, nhưng cách đường
khá xa. Chùa thuộc Nam tông, phái Thêrêvada, do đại đức
Thích Giới Hỷ trú trì. Các sư mặc áo vàng nên đồng
bào gọi là Chùa Áo Vàng.
Sau
toán Dziệt Cộng đi trước khoảng hơn một tiếng đồng
hồ thì toán thứ hai tới, cũng từ hướng Bãi Dâu lên.
Theo kinh nghiệm của ngưòi Huế trong trận Mậu Thân thì
toán quân sự đi trước, chiếm đóng và giữ an ninh, toán
đi sau là toán cán bộ chính trị. Bọn nầy chính là bọn
hoạt động chính trị và an ninh, bắt giam hay giết chết
là quyền ở những tên nầy.
Bấy
giờ Huế mớ có đài truyền hình được mấy tháng. Nhà
nào có TV thường có ăng-ten (antena) dựng trên nóc nhà.
Khi
toán Dziệt Cộng thứ hai đến, có lẽ nhìn thấy cột
“ăng-ten” ở nhà anh Tùng nên chúng bảo nhau: “Điện
đài! điện đài! Triển khai”.
Hoàng
Đông nghe nói như thế, nghi rằng chúng sẽ vào nhà nên
anh leo lên trần nhà trốn. Nhà xây gạch, trần bằng gỗ,
khá chắc. Hoàng Đông cũng không quên khi leo lên trần
nhà, anh cầm theo đôi dép. Thấy dép, Dziệt Cộng có thể
nghi có người leo lên trốn trên trần nhà.
Chị
Tùng cũng sợ. Chị kéo các con xuống bếp, núp vào góc,
đưới một tấn đan đúc bằng xi măng, trên là bếp nấu
ăn.
Có
mấy tên Dziệt Cộng đứng ngoài đường hỏi với vào:
-
“Có ai trong nhà không?”
Sau
khi hỏi hai lần, không thấy ai trả lời, chúng bèn quăng
lựu đạn (có lẽ là loại lựu đạn hơi) vào hiên nhà.
Sức lựu đạn nổ rất mạnh. Hoàng Đông núp ở trên
trần nhà, tưởng như trời sập. Sau đó, chúng vào nhà
lục soát. Chúng bắn bể cái hộp biến điện (survolteur)
đặt trên cái TV hiệu Denon. Loại TV nầy có cửa nên
chúng không lưu ý đến, tưởng là cái tủ nhỏ. Chúng
kéo mẹ con chị Tùng từ dưới bếp lên. Bọn trẻ khóc
như di vì sợ. Bấy giờ mấy tên Dziệt Cộng mới biết
cái survolteur không phải là “điện đài thông tin của
địch”. Chúng xin lỗi và hứa khi “cách mạng” thành
công, sẽ bồi thường, trước khi chúng rút đi.
Đêm
đó, thời gian trôi qua trong nỗi sợ hãi.
Mấy
hôm sau, ngày nào cũng có biểu tình “hoan hô cach mạng”.
Toán biểu tình khoảng hơn chục người, đi được một
đoạn đường thì cái đuôi đoàn biểu tình “rụng”
dần, số còn lại chưa đủ đếm năm đầu ngón tay.
Người ta bỏ trốn cả, uổng công cho đám cán bộ phải
đi hăm dọa từng nhà để gọi người iđ biểu tình,
giám sát những ai đã tham gia vì sợ người ta bỏ trốn.
Mấy
hôm đó, Hoàng Đông cũng không dám ở nhà, sợ Dziệt
Cộng đến bắt. Anh bỏ đi lang thang ngoài đường. thỉnh
thoảng mới về nhà, ăn qua loa cho xong bữa cơm, lại ra
đi. Chị Tùng thì phập phồng lo sợ, không biết chồng
trốn ở đau, có mệnh hệ gì không?
Hôm
sau, có một người phu kéo xe ba-gác quen biết, nhà ở Cây
Sanh, hàng Đường, đến nhà ông Chương, ba của anh Tùng,
nói rằng ông ta thấy một người hình dạng giống anh
Tùng nằm chết ở đầu cầu Đông Ba. Ông Chương liền
cùng với ông phu xe ba gác lên cầu, thấy đúng là con
ông, bị bắn đạn từ sau ót ra phía trước, bèn để
xác anh Tùng lên xe, kéo về nhà anh Tùng. Vợ anh Tùng và
các con, thấy anh Tùng đã chết, khóc rất thê thảm.
Anh
Hoàng Đông cùng với ông Chương rửa ráy và thay áo quần
cho anh Tùng, xong họ lấy bộ ván ngựa gồm 4 tấm, đóng
thành cái hòm, hai đầu không có nắp, bởi vì lúc bấy
giờ không sao tìm mua được cái hòm. Phố xá, chợ búa,
nhà nhà đều đóng cửa im ỉm.
Tẩm
liệm anh Tùng vô cái hòm tạm xong, hai người cùng với
vài người hàng xóm nữa, đào một cái huyệt ngay sân
trước, chôn anh Tùng ở đó.
Hôm
sau, Dziệt Cộng đến nhà ông Dương Chính Vĩnh, người
cùng anh Tùng trốn lên Chùa Áo Vàng. Té ra ông Vĩnh đã
rời chùa về lại nhà mà anh Hoàng Đông không hay. Ông
Vĩnh trốn trên trần nhà. Có lẽ do chỉ điểm, Dziệt
Cộng tới nhà ông Vĩnh, nghi ông ta trốn trên trân nhà
nên la to lên cho ông ta nghe, đe dọa nếu ông không xuống,
chúng sẽ bắn chết vợ con ông. Sợ vợ con gặp nạn,
ông Vĩnh phải xuống. Đã chuẩn bị sẵn, vừa xuống tới
nơi, ông Vĩnh vội vàng phóng chạy. Nhưng quân Dziệt Cộng
đã đề phòng trước. Khi ông mới chạy được vài bước,
chúng nổ súng bắn chết ông Vĩnh ngay tại chỗ. Hàng xóm
cũng xúm lại giúp bà Vĩnh, chôn ông ngay tại sân nhà,
như ông Tùng vậy.
Bấy
giờ ai nấy đều biết ông Tùng và ông Vĩnh bị chỉ
điểm. Ông Vĩnh nhanh chân trốn về nhà nhưng cũng không
thoát, còn ông Tùng thì bị bắt và bị giết ngay tại
cầu Đông Ba, cách chùa cũng không xa.
Vào
khoảng cuối tháng hai, khi súng “ca-non” nổ đều và
nhiều hơn, nhất là ở phía thành nội. Nhiều người
đoán chừng quân đội Cộng Hòa đang phản công. Do đó,
Dziệt Cộng bắt loa kêu gọi quân cán chính VNCH cũng như
thanh niên đến họp tại trường Gia Hội. Quân cán chính
ai đến thì bị bắt đi rồi bị giết cả. Ai không đến
trình diện thì chúng đến kiếm tại nhà, rồi cũng bị
bắt, bị giết luôn. Những ai trốn khỏi thì may mắn
sống sót. Thanh niên cũng phải đến trình diện và được
phát súng chống lại Quân đội Quốc gia.
Anh
Hoàng Đông cũng nghe lời kêu gọi đi trình diện, nhưng
vì bị bệnh nên anh di trễ. Đang đi trên đường Võ Tánh
để đến trường Gia Hội thì anh gặp thầy giáo Ấn,
nhà ở gần nhà anh Tùng, đối diện với nhà số 18 đường
Hồ Xuân Hương. Thầy Ấn hỏi anh đi đâu, anh trả lời
đi “trình diện theo lệnh cách mạng” thì thầy ấy
nháy mắt biểu anh về đi. (1)
Những
người cùng tuổi anh quen biết như Lê Bá (?) Thạnh, nhà
ở số 18 cuối đường Hồ Xuân Hương, như Nhân, con một
cư sĩ Phật giáo, nhà ở gần nhà anhh Tùng, đi trình
diện, được cấp súng và theo Dziệt Cộng luôn. Sau 1975,
Thạnh về làm phó giám đốc đài phát thanh Huế. Nhân
thì không được cái chức gì cả, nay đã về hưu.
Ngày
27 tháng 2, sau khi Dziệt Cộng rút đi rồi, đồng bào đổ
xô đến trường trung học Gia Hội để tìm thân nhân đã
bị Dziệt Cộng bắt đi. Hoàng Đông cũng đến trường
Gia Hội xem tình hình như thế nào. Phía ngoài trường Gia
Hội, hai bên đường Võ Tánh, có những hố cá nhân do
Dziệt Cộng đào cách đều nhau để đề phòng chống lại
khi bị tấn công thì có một số hố có chôn sống người
dân. Người ta đang moi đào để lấy xác lên. Sân trường
nằm sâu vào phía trong, có con đường dẫn vào. Hai bên
đường là hồ sen, có tên là hồ ông Mười. Sân trường
có khoảng vài chục cái hầm, mỗi hầm chôn từ 3 đến
5 hoặc 7 xác người. Người chết bị chôn chung trong một
hố bị trói thúc ké liền vào với nhau bằng giây điện
thoại nhà binh hay bằng giây kẽm gai còn nguyên mắt kẽm
nhọn.
Anh
Hoàng Đông thấy một gia đình có mấy cha con đang đi tìm
người vợ. Có đứa con nói với người cha: “Có người
chết đằng kia, mặc cái áo len giống má ba ơi!” Người
cha bảo: “Ba có coi rồi, không phải đâu! Mạ không có
béo (mập -tg) như rứa”
Một
lúc sau, mấy người đi đào xác, đem cái xác người đàn
bà ấy lên, lật moi ở túi trước ra, thấy có tấm thẻ
căn cước, đọc tên, la to lên: “Bà tên là (anh Hoàng
Đông không nhớ tên). Ai thân nhân đến nhận xác.” Nghe
đọc tên, mấy cha con chạy ùa đến xem, nhận đúng xác
người thân. Mấy cha con khóc lóc thê thảm lắm. Té ra bà
ấy chết đã mấy bữa, xác sình lên nên người chồng
tưởng là mập, không nhận ra.
Thấy
hoàn cảnh đau đớn của mấy cha con, nhiều người khóc
theo!
Hôm
ấy có một giáo sư người Pháp dạy ở trường Pascal Đà
Nẵng đến Huế để xem tình hình. Thấy ông ta đứng lớ
ngớ ở sân trường, anh Hoàng Đông đến hỏi thăm và
tình nguyện làm thông dịch viên tiếng Pháp giúp ông ta.
Gần chiều, ông ta về lại Đà Nẵng. Hoàng Đông nhờ
ông ta đánh giúp điện tín (lúc ấy Bưu điện Huế chưa
được sửa chữa, không hoạt động được), báo tin cho
cha mẹ anh ở Saigon biết anh em anh ở Huế được bình
yên. Hoàng Đông dặn cứ đề tên người gởi là tên ông
ta, nhưng vì lịch sự, khi đánh điện tín, ông giáo sư
người Pháp lại đánh tên người gởi là “deux et
trois”, là tên tục của anh em anh. Vì vậy, khi nhận được
điện tín, bố mẹ anh tưởng lầm rằng hai anh em anh đã
chạy vào được Đà Nẵng rồi.
Ngày
hôm sau nữa, Hoàng Đông gặp một người quen vừa đi
xuống Bãi Dâu về, Bãi Dâu ở cuối đường Võ Tánh nhà
anh ở. Người quen cho biết bấy giờ thì đồng bào đã
lấy xác thân nhân đi hết rồi, chỉ còn lại ngổn ngang
giày dép mũ nón người chết, những sợ giây kẽm gai và
giây điện thoại trói người, và dấu heo, chó ủi vào
chỗ chôn người để kiếm ăn. Nhiều cái xác đã rữa
nát, thân nhân chỉ hốt được bộ xương, nên trong một
phạm vi rộng lớn của Bãi Dâu còn nồng nặc mùi thối
rữa da thịt của xác chết, tưởng như xuống tới địa
ngục.
HOÀNG LONG HẢI
HOÀNG LONG HẢI
(1)
Sau tết Mậu Thân gia đình thầy Ấn cùng cha me, sợ Dziệt
Cộng quá, bỏ Huế vào nam, không dám trở lại.