Những ai đã từng quen biết,
thường giao hữu với Lê Văn Khoa trước 75 tại Việt Nam
hay sau 75 trên khắp các vùng đất định cư mới này, đặt
biệt là tại Hoa Kỳ đều công nhận anh là một người
đa tài, đa năng, đa hiệu. Những đức tánh tốt như
khiêm tốn, đầy óc sáng tạo, tự tin và cẩn trọng của
anh có thể đã là nguyên nhân giúp anh thành công trong
cuộc đời và sự nghiệp. Anh lại là người luôn cởi
mở, biết lắng nghe, hòa nhã trong cách ứng xử, nên ai
ai cũng ái mộ. Tài năng của anh và ảnh hưởng, tên tuổi
lừng danh, nổi bật trên thế giới của anh quả là một
điều xứng đáng cho người Việt Nam chúng ta khâm phục,
hãnh diện.
Lê Văn Khoa ra đời vào ngày 10
tháng 6 năm 1933 trong một gia đình thanh bạch tại Tây đô,
tức Cần Thơ. Nơi ấy là một thành phố đầy thơ mộng,
nằm bên hữu ngạn dòng Bassac – tức Hậu giang [sông
Hậu], thuộc vùng đồng bằng, châu thổ sông Cửu Long.
Anh mất mẹ sớm nhưng may thay lại có một người cha
hiền đức, một vị mục sư đầy lòng bác ái, chăm chỉ,
tận tụy vì đời vì giáo chúng của mình. Anh thừa hưởng
tình thương, sự giáo huấn và lòng nhân từ cha mình đề
làm hành trang quí báu, dấn thân trên bước đường tạo
dựng sự nghiệp mà anh hằng ấp ủ, mơ ước.. Đến khi
trưởng thành anh đã đem tình thương và lòng vị tha, bao
dung đó để hướng dẫn, giáo hóa những trẻ bụi đời,
thăng hoa kiếp sống của những em thiếu nhi khốn cùng,
bị gạt ra ngoài lề xã hội. Anh là người chăm học,
hiếu học và lạ lùng, kỳ diệu thay, lãnh vực nào anh
cũng thành công.
Khi giáp mặt, tiếp cận anh,
người ta đều có thể mau chóng, dể dàng cảm nhận ra
rằng ẩn trong cái dáng hiền hòa, đôi mắt sáng và nụ
cười tươi vui, thân thiện kia đang tiềm tàng cả một
tâm hồn rộng lớn cùng ý chí sắt son và quan trọng hơn
là cả một khối kiến thức uyên bác.
Đến nay, tuy đã trên 77 tuổi
anh vẫn còn là người tích cực đóng góp trong các hoạt
động về âm nhạc, văn học và nghệ thuật. Con người
trầm lặng, đầy óc sáng tạo đó vẫn ngày ngày âm thầm
tư duy, làm việc không biết mệt mõi để cống hiến
những khám phá mới cho người, cho đời cả một kho tàng
lớn lao về mỹ thuật và âm nhạc học...
Tôi rong chơi ở các nước ngoài
cả năm vừa trở về Mỹ thì nhóm chủ trương “Nghĩ về
Lê Văn Khoa, một người Việt Nam” yêu cầu viết bài về
anh cho kịp ngày in sách. Thật ra thì các thân hữu này
chẳng cần mời gọi vì trước đây 2 năm khi tôi và anh
Lê Văn Khoa cùng tham dự ngày ra mắt sách kỷ niệm về
nhạc sĩ Anh Bằng, tôi đã hứa với anh em là tôi sẽ
viết về thi lão Hà Thượng Nhân và anh Lê Văn Khoa. Lời
hứa viết về vị chưởng môn đáng kính của nhật báo
Tiền Tuyến tôi đã thực hiện trên ấn phẩm “Kỷ Niệm
Về Thi Sĩ Hà Thượng Nhân” vừa phát hành, ra mắt vào
hạ tuần tháng 11/2010 tại San José. Hơn nữa cụ Hà và
Lê hiền huynh là 2 trong những thân hữu, có giao tình sâu
đậm khác mà tôi đang cố gắng hoàn tất cho cuốn “Những
Trích Tiên Phiêu Bạt Trong Dòng Thi Ca, Nghệ Thuật Việt
Nam”. Đó là các anh Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Trần
Tuấn Kiệt, Hoàng Trúc Ly, Tường Linh và các bạn Du Tử
Lê, Anh Việt Thu, Hồ Thành Đức, Luân Hoán, Linh Phương,
Trần Hoài Thư…
Vì sách đang chuẩn bị lên
khuôn, nên tôi chỉ có đủ thời gian để đề cập đến
Lê Văn Khoa qua 3 lãnh vực tiêu biểu của anh, mà đa số
người thân cận hoặc đã tìm hiểu về anh đều công
nhận là xuất sắc. Sự đóng góp của anh trên các lãnh
vực này phải nói là đã vượt khỏi biên giới, không
gian nhỏ bé Việt Nam để gây ảnh hưởng sâu đậm, hòa
hợp, nhập cuộc, bay bổng cùng với âm nhạc, nghệ thuật
hoàn vũ. Mấy hoạt động khác của anh về báo chí, dịch
thuật, xã hội và nhân văn…nếu có dịp sau này tôi sẽ
trở lại để trình bày, đề cập đến.
- NGƯỜI THẦY, BẬC PHỤ HUYNH TỪ ÁI CỦA CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC THIẾU NHI.
Một
người thông thái, khôn ngoan phải ghi nhớ rằng
trong khi ông ta là hậu duệ của quá khứ,
ông ta cũng là một đấng sinh thành của tương lai ". [1]
Herbert
Spencer
Trước tháng 4 năm 1975 những ai
thường theo dõi các chương trình của đài truyền hình
Sàigòn đều biết, đều say mê khi xem Chương Trình Thế
Giới Của Trẻ Em – tức Chương Trình Thiếu Nhi Lê Văn
Khoa- trên băng tầng số 9. Đó là một chương trình giáo
dục thực dụng, mới mẽ được nhiều người xem nhất,
không riêng gì với thanh thiếu nhiên, thiếu nhi mà cả
giới phụ huynh của họ. Chương trình Tivi của anh cùng
với 2 shows nhạc của Anh Việt Thu, Bảo Thu luôn luôn
thuộc loại “prime time ăn khách” thời bấy giờ và
thường xuyên được chiếu lại, ít nhất, trên băng tần
số 6 của Đài Truyền Hình Cần Thơ, nơi quê hương thân
yêu của vị thiếu niên ham học, thông minh, sớm phát
triển óc mỹ thuật, nghệ thuật này.
Chương Trình Thế Giới Của Trẻ
Em chẳng những giúp mở mang kiến thức và lòng yêu nước
cho trẻ em trong một quốc gia bị chiến tranh tàn phá,
tràn ngập khói lửa mà còn gợi ý, tạo hứng khởi cho
một số các nhà giáo dục, khoa học gia cải tiến lãnh
vực chuyên nghiệp của họ. Đồng thời chính các nỗ
lực và sáng kiến của anh còn giúp đưa danh dự và uy
tín của trẻ em Việt Nam ra thế giới bằng những cuộc
triển lãm, dự thi tranh thiếu nhi quốc tế. Nhờ vậy
nhiều em đã đoạt được những giải thưởng, bằng
khen cao quý. Chính những kết quả rất đáng khích lệ,
tuyên dương này đã khơi dậy lòng tự tin để các thiếu
nhi mạnh dạn phát triển tài năng của mình.
Đìều đáng tiếc là chương
trình của anh đã không nhận được một sự trợ giúp
nào từ ngoại bang hay các tổ chức, hiệp hội quốc
nội. Ngay cả chính phủ thời bấy giờ cũng không
biết khai thác những ưu điểm ấy để làm
lợi cho quốc gia
.
●●●
●●●
Tôi quen anh hơi muộn màng. Tuy
biết và nghe danh tiếng anh từ lâu, nhưng mãi đến đầu
năm 1971, sau khi được chính thức giải ngũ, được điều
động về Bộ Tài Chánh, tôi mới có cơ duyên hội ngộ
cùng anh tại đài Truyền Hình Việt Nam. Cơ sở truyền
hình này nằm trên khuôn viên đường Hồng Thập Tự và
Đinh Tiên Hoàng, kế cận trường Đại học Văn Khoa. Đại
Học Văn Khoa là nơi trong những năm đầu thập niên 60,
tôi, Phạm Quốc Bảo, Bùi Ngọc Tuấn… đã từng ngồi
lê trên các giảng đường nóng bức, chật hẹp thiếu
tiện nghi trong mấy năm đầu khi trường này còn nằm
giữa đường Nguyễn Trung Trực và Gia Long. Sau khi tôi về
trường Luật, rồi nhập ngũ để thi hành nghĩa vụ công
dân trong thời chiến thì Phạm Quốc Bảo được bầu là
chủ tịch sinh viên Sài Gòn. Hai bạn Bảo, Tuấn đều là
giáo sư và cũng là những người luôn tán thưởng, đánh
giá cao về chương trình giáo dục thiếu nhi đầy sống
động, vui tươi, tân tiến của Lê Văn Khoa.
Chính Phạm Quốc Bảo và các bạn
trong ban đại diện sinh viên là những người đã từng
thụ ân của anh Lê Văn Khoa trong việc họ cùng Tổng hội
Sinh viên Nhật Bản đã tổ chức thành công cuộc triển
lãm “Our Beloved Việt Nam” [VN Quê Hương Dấu Yêu] về
các bộ mộn văn mỹ nghệ. Cuôc triển lãm này kéo dài
cả năm 1967 tại National Museum, một bảo tàng viện đồ
sộ ở Tokyo và tại các trường trung, đại học trên đất
nước của “thần Thái Dương”.
Số là sau khi phân ban Việt Nam
thu góp xong được một số tranh tiêu biểu của các họa
sĩ: Nguyễn Gia Trí, Tú Duyên, Hồ Thành Đức, Bé Ký,
Nguyên Khai, Đinh Cường, Nghiêu Đề..., thơ của Trần
Tuấn Kiệt, sản phẩm thủ công, mỹ nghệ của các lò
gốm Bình Dương, nhạc của Trịnh Công Sơn thì Phạm Quốc
Bảo và các sinh viên khác phát hiện họ còn thiếu 2 lãnh
vực quan trọng. Đó là tranh và điêu khắc của thiếu
nhi VN.
Theo yêu cầu của Phạm Quốc
Bảo, anh Khoa đã vui vẻ nhập cuộc để giải quyết nan
đề khó khăn, cấp bách này. Bằng uy tín và tài tổ chức
của mình, Lê Văn Khoa đã nhanh chóng thực hiện một cuộc
thi về 2 bộ môn này với cả trăm thiếu nhi tham dự Nên
ghi nhận thêm ở đây: phần lớn nhóm trẻ này là những
người đã do anh Khoa trực tiếp dạy dỗ, đào luyện.
Chính những tác phẩm mỹ thuật chọn lọc của các em đã
giúp phân ban sinh viên Việt Nam quảng bá đầy đủ hơn
nền văn mỹ nghệ đặc thù của dân tộc. Giới thưởng
ngoạn, chuyên gia văn hóa thế giới đã ngạc nhiên, không
ngờ trong thời kỳ chiến tranh, khói lửa như vậy mà các
nghệ nhân, văn nghệ sĩ, thiếu nhi Việt Nam lại vẫn có
thể hoàn thành những sản phẩm, tác phẩm đặc biệt có
giá trị cao như thế.
●●●
Giống như các thanh thiếu niên,
thiếu nhi khác, các con tôi rất hâm mộ, say mê, thường
xuyên theo dõi show của anh, đã thấy anh đàn và ước
vọng được trực tiếp tham dự. Thế là gần cuối năm
ấy, tôi được anh bạn vốn là nhân viên nồng cốt của
sở Chương Trình và Thời Sư, cùng cô em vợ làm việc
tại đài cho biết ngày giờ thâu hình chương trình Thế
Giới Của Trẻ Em để phát hình trong dịp Tết, tôi đã
mang các cháu Phan Thủy Như Quỳnh, Phan Thủy Duyên Giao và
Phan Bá Thụy Vi vào gặp anh.
Đúng ra các con tôi còn quá nhỏ,
chưa ai hội đủ điều kiện để gia nhập, nhưng có lẽ
vì là một chương trình đặc biệt vui Xuân nên anh đã
vui lòng để 3 cháu tham gia, góp mặt với những em cháu
thường trực khác. Cuối chương trình khi cameramen quay
cảnh Lê Văn Khoa đang phát bao lì xì cho các em thì vì bỡ
ngỡ, chưa quen, nên một hoạt cảnh náo nhiệt đã xảy
ra mà tôi và chắc anh còn nhớ mãi. Cháu Thụy Vi lúc ấy
mới hơn 2 tuổi, nhất định không chịu nhận bao tiền
lì xì, rồi cứ bỏ chạy vòng vòng la hoảng: “Con không
lấy. Không lấy. Con không lấy đâu.” Cháu Như Quỳnh và
anh Khoa phải dổ dành, khuyên bảo nó mới cầm tiền, cám
ơn bác Khoa. Sự kiện đột ngột xảy ra khiến tất cả
mọi người trong hội trường đều cười xòa, hoan hỉ.
Chính nhờ ảnh hưởng, sự dìu
dắt, hưởng dẩn ban đầu này của anh Khoa mà hai đứa
con tôi là cháu Duyên Giao và Thụy Vi đã chịu học thêm
piano và đàn organ sau khi tôi và 3 cháu vừa định cư tại
Hoa kỳ trong những ngày đầu thập niên 80, khi các cháu
còn theo học nội trú tại trường trung học tư thục
Moye Brown ở Providence, tiểu bang Rhodes Island. Vì nguyên
nhân này mà một số những người trong hội bảo trợ
tôi như vợ chồng tiến sĩ John, Marjorie Udalls, vợ chồng
bác sĩ Roger và Ann Ward… phải thay phiên nhau mỗi chiều
lái xe vào trường đón 2 cháu để đưa chúng đến nhà
vợ chồng nhạc sĩ Milligans ở thị trấn Cumberland học
nhạc, rồi đưa các cháu về lại trường nội trú. Cháu
đầu lòng Như Quỳnh thì vừa bận học vừa phụ bố
trong cảnh gà trống nuội con chăm lo cho các em lại còn
phụ trách trang Thiếu Nhi cho tờ Lửa Việt bên Canada nên
không còn thì giờ theo học đàn dương cầm mà cháu rất
yêu thích.
Đối với các em cháu thiếu nhi
trong thời khoảng 1968 -1975 thì Lê Văn Khoa luôn là một
người huynh trưởng, một bậc phụ huynh đức độ,
nghiêm cung, từ ái. Không ai là không từng thừa hưởng
những kiến thức bác học thâm uyên, thực dụng mà anh
đã gieo cấy vào những khối óc, tâm hồn trong sáng,
những mầm non đầy triển vọng của tương lai, đất
nước.
●●●
Xin mời quí vị đọc qua lời
phát biểu dưới đây của thầy Nguyễn Thanh Liêm – một
nhà giáo dục uyên bác của Việt Nam Cộng Hòa
và là nguyên Thứ trưởng Văn Hóa Giáo Dục, để hiểu
thêm về khả năng bẩm sinh, đặc thù của anh:“Nói chung, lãnh vực nghệ thuật là lãnh vực đã làm cho Lê Văn Khoa được nhiều người biết đến và tán thưởng. Nhưng ở con người Lê Văn Khoa còn có một tài năng rất có giá trị khác mà ít người biết đến hay nói đến. Đó là tài dạy học của ông. Trên phương diện dạy học, ông là một nhà giáo có khả năng sư phạm bẩm sinh rất đặc biệt. Trước kia ở Việt Nam ông đã có những lớp học trên đài truyền hình. Qua những lớp học đặc biệt này người ta có thể thấy được triết lý, chủ trương cũng như phương pháp giáo dục của ông. Ông không tốt nghiệp ở một trường sư phạm nào, không dạy chánh thức ở một trường công lập hay tư thục nào cả. Ông chỉ có một lớp học nhỏ với một ít học sinh trên đài truyền hình mà thôi. Bài học ông dạy không theo sát chương trình học của Bộ Giáo Dục. Tuy nhiên kết quả giáo dục của ông rất đáng kể.
Trước hết những kiến thức mà ông trao cho học sinh của ông là những kiến thức rất thực tế, cụ thể mà nhà trường vì điều kiện vật chất thiếu thốn không cho phép, không thể cung ứng cho học sinh được. Thí dụ như một số những thí nghiệm về hóa học mà ông có thể cho học sinh của ông thực hiện được trong chương trình của ông trong khi học sinh ở các trường công lập cũng như tư thục chỉ học trên lý thuyết. Thành ra bài học cụ thể của ông giúp ích rất nhiều cho sự hiểu biết và sự ghi nhận của học sinh hơn là những bài học lý thuyết suông ở trường học.”
[NGUYỄN THANH LIÊM - Lê Văn Khoa: Nghệ Sĩ Đa Năng, Nhà Giáo Dục Đáng Kính]
Khi được hỏi về những điều
đáng ghi nhớ qua Chương Trình Thế Giới Của Trẻ Em mà
anh đã dày công thực hiện cả chục năm trước khi đào
thoát, tránh nạn Cộng sản, anh cho biết:
“Kỷ niệm khó quên thì rất nhiều, ví dụ như sự
ngạc nhiên của các em cũng như khán giả bên ngoài khi
thấy tôi làm việc tréo cẳng ngổng bằng cách cho ông
già Noel xuất hiện trong chương trình Trung Thu. Những
chương trình truyền hình của tôi đều không có tập dợt
trước, nên phản ứng của các em rất chân thực. Thái
độ, nét mặt và lời nói đều hoàn toàn của các em
trong giây phút đó. Trong những cuộc giao tiếp, gặp gỡ tình cờ ngoài đường phố tôi đã được nhiều anh em quân nhân cám ơn vì tôi đã thay mặt họ hướng dẫn, giáo hóa dùm con cái họ - qua truyền hình – bởi bản thân họ không có mặt thường xuyên ở nhà để dạy dỗ. Có những quân nhân còn chân thành cám ơn tôi vì nhờ chương trình truyền hình của tôi họ từ bỏ cuộc sống bụi đời để trở nên người lính chiến bảo vệ quê hương. Tôi nghĩ những lời khen ngởi, tri ân chân thành đó là phần thưởng cao quý hơn những bội tinh, huy chương mà tôi nhận được. Với tôi, một ly nước mía bên lề đường trong tâm tình lắng đọng giữa con người với con người thật sự còn ngọt ngào, chân tình hơn một ly rượu sang trọng trong dinh Độc Lập.”
- NHIẾP ẢNH GIA TÀI BA QUA LĂNG KÍNH NGHỆ THUẬT.
“Nhiếp
ảnh là môi trường ưu việt có đủ tiêu chuẩn,
điều kiện để hợp nhất nghệ thuật với khoa học.
Nhiếp ảnh đã được phát sinh trong những năm,
trong giai đoạn khởi sự, báo hiệu thời đại khoa học.
Nó
là hiện thân, là kết quả của cả khoa học lẫn nghệ
thuật.” [2]
Berenice
Abbott
Nếu ta có thể
coi đời người như một dòng sông thì ta có thể ví Lê
Văn Khoa như một dòng sông xanh, tươi mát mãi mãi trôi
chảy không ngừng, không biết mệt mỏi.
Thật vậy, anh
đã cống hiến trí tuệ, tài năng ưu việt, và thời gian
hạn hữu của đời mình cho toàn sự nghiệp mà anh đã
theo đuổi. Trong đó nghệ thuật nhiếp ảnh là một trong
các nổ lực anh đã luôn say sưa, phụng sự.
Có thể trong
tâm thức sâu kín của một tín hữu Cơ Đốc Giáo thuần
thành, anh đã tự coi mình như là một thừa sai của
Thượng đế, để qua ống kính và bằng đôi mắt tinh
anh, sắc sảo ghi nhận lại màu sắc nét xinh đẹp của
sông núi, biển cả, của thân, lá cây rừng, của thế
nhân…rồi trải đều, gieo cấy trong tâm hồn giới
thưởng ngoạn, hầu làm đẹp cho đời, hầu thăng hoa
cuộc sống của con người vốn dĩ vương mang nhiều hệ
lụy, muộn phiền.
Trái với anh tôi là Anh Thuần
[Phan Bá Thuần Hậu], một ký giả thâm niên của các nhật
báo Việt ngữ, Hoa ngữ tại Sàigòn và cũng là phóng viên
chiến trường của Phòng Báo Chí Quân Đội, của nhật
báo Tiền Tuyến và Đài Phát Thanh, tôi lại là kẻ mù
tịt về kỷ thuật, nghệ thuật nhiếp ảnh. Cả đời
tôi chưa bao giờ biết cách sử dụng máy ảnh, dù là các
kiểu máy đơn sơ, giản dị. Giống như Helmut Newton tôi
không phải là người ham mê, thường xuyên tham dự các
cuộc triển lảm hay những cuộc nói chuyện về ngành mỹ
thuật này. Còn Helmut Newton thì nhờ biết chịu khó tôi luyện, về
sau ông đã trở thành một nhiếp ảnh gia thời trang đại
tài. Còn tôi thì đơn giản chỉ
là kẻ thiếu kiến thức, lười học hỏi. Tôi chỉ có thể
nhận ra chân giá trị của ảnh nghệ thuật, sau khi có
người hướng dẩn, diễn giải để biết thích thú trước
những bức ảnh của các anh Nguyễn Ngọc Hạnh, Lê Văn
Khoa, Trần Cao Lĩnh, Nguyễn Cao Đàm, Thái Đức Nhã…
Vì
vậy, nên tôi lại xin dùng những lời của những chuyên
gia trong nghề nhiếp ảnh đã nói, đã viết về Lê Văn
Khoa để người đọc có thể thấu hiểu thêm một tài
năng sinh động khác của anh:
“Người nghệ sĩ cầm máy, sử dụng máy như là một
phương tiện để tỏ bày tâm trạng của mình hay sử
dụng nghệ thuật như là một phương tiện để khám phá
ghi nhận những hình ảnh mới. Ảnh đẹp nhưng không có
chiều sâu về mặt nội dung, không ẩn chứa sâu sắc một
ý niệm nào đó thì cũng chưa hẳn là một tác phẩm nghệ
thuật cho trọn nghĩa... Nghệ thuật phải chăng là sự
sáng tạo của con người có tiềm ẩn một ý niệm, một
sắc thái đi vượt lên trên cái bản chất căn bản cố
hữu của nó... “Hình, thần và ý” là những điều
kiện cần phải có cho một tác phẩm nghệ thuật... Âm nhạc và nhiếp ảnh vẫn luôn gắn liền với nhau trong con người nghệ sĩ của Lê Văn Khoa nên có đôi khi người nghe sẽ thấy được hình ảnh trong âm nhạc của ông, hay ngược lại người xem sẽ nghe được những âm thanh, tiếng nhạc trong tác phẩm nhiếp ảnh của ông... Giáo sư Lê Văn Khoa đã trình bày về ý niệm này trong một buổi phỏng vấn của đài truyền hình Fox 11 KTTV, Los Angeles, để vinh danh các nghệ sĩ của khu vực Thái Bình Dương (Celebrating the Creative Spirit for Asian Pacific American Heritage Month, May 1997).
[Phạm Mạnh Tiến - Lê Văn Khoa và Nghệ Thuật]
Được biết ngay từ độ tuổi
đôi mươi Lê Văn Khoa đã say mê và tự tìm hiểu, tự
học qua sách vở nước ngoài về ngành chuyên môn này và
đến năm 1967 anh đã sáng lập Hội Ảnh Nghệ Thuật Việt
Nam tại Sài Gòn và anh cũng như các thành viên trong hội
đã chiếm nhiều giải thưởng, huy chương cao quý qua các
cuộc thi ảnh quốc tế. Chính anh cũng là một trong những
nhiếp ảnh gia tài danh, sớm đoạt giải ảnh nghệ thuật
của Tổng Thống Việt Nam Công Hòa.
●●●
Sau khi miền Nam vừa rơi vào tay
tập đoàn Cộng sản, anh đã nhanh chóng sang định cư tại
Hoa Kỳ và đã tái lập, tái hoạt đông Hội Ảnh Nghệ
Thuật. Hiện giờ hội đã có nhiều hội viên trên khắp
các tiểu bang Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác trên thế
giới. Trong nhiều năm qua Hội Ảnh Nghệ Thuật VN đã
liên tục đoạt các huy chương vàng, đặc biệt là các
cuộc thi tại Áo quốc với các giải thưởng:
“Top 10 Photo Clubs” [Al Thani -
2006], “Best Print Clubs” [Trierenberg Super Circuit – 2007,
2009 và Best Digital Clubs” 2010]... Đây là những cuộc
tranh giải đầy cam go, khó khăn giữa các hội ảnh, các
nhiếp ảnh gia tên tuổi hàng đầu, lừng danh quốc tế.
Lê Văn Khoa còn là người VN đầu
tiên có ảnh được trưng bày tại Quốc Hội Hoa Kỳ và
đã từng là giáo sư bộ môn nhiếp ảnh tại Salisbury
Stạte College, ở Maryland. Anh cũng là người Việt Nam duy
nhất cùng với các họa sĩ Henry Coe, George Founds, James
Plum và W. Robert Tolley được Baltimore Museum of Arts
(Maryland) tuyển chọn để tài trợ một cuộc triển lãm
lưu động lấy tên là “Five From The Eastern Shore” kéo
dài từ 1977 đến 1979.
Để có thể
nhận thức hoàn hảo hơn về Hội Ảnh Nghệ Thuật VN,
xin mời quí vị đọc qua bài viết của nhiếp ảnh gia Võ
Văn Thạnh, người cùng quê hương Bình Thuận với tôi.
Anh này là người đã gia nhập hội ảnh ngay trong những
ngày đầu Hội Ảnh Nghệ Thuật Việt Nam vừa thành lập.
“Những nhiếp ảnh gia tại Phan Thiết như Ngô Ðình
Cường, Thân Trọng Duyệt, Ðinh Văn Anh, Trương Vĩnh Ðức,
Xuân Hải, Nguyễn Văn Thịnh, Phạm Gia Cẩn (cháu nhiếp
ảnh gia Phạm Văn Mùi), giáo sư Chuyết, Hồng Anh, Ðông
Phương và tôi, Võ Văn Thạnh, đều có chung ý hướng làm
đẹp quê hương VN qua nhiếp ảnh. Chúng tôi cùng nhau sinh
hoạt đều đặn, cho đến năm 1967. Vào mùa thu năm 1967,
đài phát thanh, báo chí và đài truyền hình VN loan tin Hội
Ảnh Nghệ Thuật Việt Nam được chính thức thành lập
dưới sự hướng dẫn của nhiếp ảnh gia Lê Văn Khoa.
Anh em chúng tôi cảm thấy có một niềm tin mới, một
hướng đi rõ rệt và một tinh thần đoàn kết để cùng
tạo uy tín cho ngành nhiếp ảnh Việt Nam trên trường
quốc tế. Chúng tôi trao đổi thư từ với Sài Gòn để
ủng hộ và ngỏ ý muốn sinh hoạt chung với Hội Ảnh
Nghệ Thuật Việt Nam. Sau nhiều trao đổi văn thư, nghiên
cứu nội quy, đến tiếp xúc cá nhân, anh em nhiếp ảnh
gia Phan Thiết và Phan Rí (Lê thiện Tích, Kiệt) đã họp
lại, chính thức gia nhập và trở thành chi hội Bình
Thuận của Hội Ảnh Nghệ Thuật Việt Nam. Ðiều mà
chúng tôi không biết là đồng thời những nhiếp ảnh
gia rải rác ở khắp miền Nam cũng có cùng quan niệm như
chúng tôi, đồng kết để tạo thế lực lớn cho nhiếp
ảnh miền Nam. [Võ Văn Thạnh: Lê Văn Khoa và Tôi]
- NHÀ SOẠN NHẠC LỪNG DANH, NGƯỜI ĐÃ ĐEM TÂM TÌNH VIẾT NÊN NHỮNG BẢN TÌNH CA BẤT HỦ MANG ĐẦY ÂM HƯỞNG, MÀU SẮC, TÌNH TỰ DÂN TỘC.
“Một
nhạc sĩ chân chính là người luôn cảm nhận trong trái
tim
mình về tình yêu y như một nhà soạn nhạc, soạn hòa âm cảm thấu.
Âm
nhạc không bao giờ có sự phân chia ranh giới.”[3]
Svyatoslava
Semchuck,
Tôi nghĩ, nhạc sĩ, nhà soạn nhạc là những người có khả năng đặc biệt nghe, cảm và ghi nhận lại một phần nào các thanh âm, sắc độ thiên nhiên của tấu khúc vi diệu ấy để chia sẻ cùngđồng loại.
“Hồi còn trẻ tôi đã tâm niệm sẽ tiếp tay với những người đi trước để phong phú hóa Nhạc Việt. Phong phú hóa bằng cách nào? Không phải bằng những ca khúc phổ thông nữa nhưng mà đưa nó đi xa hơn để có thể hòa vào với dòng nhạc của thế giới…”
Đó là câu mà anh đã
phát biểu với anh em, thân hữu khi anh có dịp hàn huyên,
thuyết thoại về khía cạnh, bộ môn âm nhạc. Đó cũng
là tâm nguyện mà anh đã và đang thực hiện.
Âm nhạc là hạt trân châu mượt mà tô điểm cuộc đời thêm óng ả, là nét thăng hoa của kiếp người. Âm nhạc là dòng suối mát ngọt ngào và là những tiếng sóng lòng dào dạt hương yêu. là lời tỏ tình thầm kín, cao sang của người đối với người.
Âm nhạc là đại tấu khúc triền miên, tuyệt vời của vũ trụ. Âm nhạc là hơi thở của tâm hồn, là nhịp đập của trái tim. Âm nhạc cho chúng ta lối thoát khi ta cảm thấy chán nãn, cô đơn. Nó có thể vỗ về, xoa dịu hay hóa giải niềm đau phiền muộn. Khi ta vui âm nhạc cũng có thể làm cho mình thấy hân hoan, sảng khoái và yêu đời hơn. Có khi nào bạn cảm thấy thể xác, tâm hồn mình dường như tan loãng chan hòa cùng sương khói để nương theo sự dịu ngọt trầm bổng của âm thanh?
Có nhìn thấy
LVK trên bục gỗ điều khiển dàn nhạc giao hưởng trong
các thính đường, hay xem tận mắt anh trình tấu dương
cầm mới hiểu rõ thấu đáo sự sôi nỗi cũng như trầm
lắng đầy nhiệt tâm, nhiệt tình trong nghệ thuật âm
nhạc của nhà soạn nhạc tài hoa này. Đôi bàn tay lúc
nào cũng uyển chuyển vươn cao, hạ thấp, trải ngang, rẽ
dọc theo dòng nhạc của các tấu khúc thời danh của anh,
của các bậc vĩ nhân, bậc thầy trong ngành âm nhạc thế
giới mới thấy rỏ con người sống động, sự đam mê
của anh.
Có nhìn vào đôi
mắt, cửa sổ của tâm hồn anh, có nhìn vào nét mặt say
sưa của anh và những ngón tay khoan nhặt, tung tăng nhảy
múa, khi sôi nổi, lúc nhàn nhã lướt trên các phiếm
dương cầm lóng lánh, óng ả mới nhận ra sự điêu
luyện, đam mê của một người nghệ sĩ khả ái, khả
kính này. Dù đó là các bộ môn thuộc loại cổ điển,
lãng mạn trữ tình Tây phương như các đại tấu khúc
của L.V. Beethoven, Frederic Chopin, J.S. Bach, P.I
Tchaikovsky, Nikolai
Rimsky-Korsakov, F.J. Liszt, Isaac Albeniz, Amy Beach, Johannes
Brahms …, của âm nhạc hiện đại
qua các âm giai, cung bậc réo rắt, trầm bổng thứ
[minor], trưởng [major] và khúc ngắt, lặng [silent] hoặc
nhạc dân tộc cổ truyền Đông phương với sự hài hòa
ngũ cung, thất cung, bát âm.
●●●
Thủa thiếu thời tôi
cũng say mê âm nhạc như anh. Trong những năm còn học
trung học đệ nhất cấp tại trường trung học công lập
Phan Bội Châu Phan Thiết, qua sự dẩn dắt của vợ chồng
“nhạc sĩ mù” tôi và các bạn cùng lớp như Trần
Thiện Thanh, Bùi Minh Ngọc, Lê Văn Nghê, Lê Văn Trung… đã
gia nhập ban nhạc dây của anh chị này để đàn, thổi
sáo, ca hát cho chương trình phát thanh của ty Thanh niên và
gia đình Phật tử, thỉnh thoảng trình diễn tại chateau
d’eau tức công viên, vườn bông Phan thành, nằm sát bên
sông Cà Ty.
Khi nhập cư Sài Gòn
để học tiếp chương trình đệ nhị cấp, trong năm đầu,
tôi cũng đã được 2 anh Lâm Tuyền và Vĩnh Căn kèm dạy
thêm về độc tấu Tây ban cầm và giáo sư âm nhạc Hoàng
Long huấn luyện về phong cầm. Nhưng ánh sáng đô thành
hoa lệ và nữ tú của Hòn Ngọc Viễn Đông đã nhanh
chóng quyến rủ cậu thiếu niên nhà quê u u mê mê như
tôi vào ngõ cụt. Tôi đã tự chuyển hướng sang con đường
không giống ai là làm thơ, viết văn tán gái!!. Được
báo đăng bài nào là vội vàng mua năm bảy tờ, cẩn thận
cắt bài của mình rồi ba chân, bốn cẳng chạy tới
Marie Curie, Gia Long hay Trưng Vương để trịnh trọng trao
tặng cho mấy cô nữ sinh má đỏ hây hây, chứa chan cả
một biển trời mộng mơ với tình xuân, hương yêu lồng
lộng...Những tưởng sẽ gặt hái được vài lời khen xã giao, khích lệ hay ho, ít ra cũng một hai nụ cười duyên dáng, an ủi. Ai dè bọn choai choai, quỉ quái nọ đọc xong đều cười sặt sụa rồi trợn tròn mắt phán: “Thiên địa, quỉ thần ơi. Văn chương, chữ nghĩa của anh sao mà hôi mùi nước mắm thế này. Thiệt còn tệ, dở hơn “câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An” cả trăm lần. Thôi hãy ngoan ngoãn liệu bề xách khăn gói, quả mướp sớm “trở về làng cũ học cày cho xong” đi hỡi chàng trẻ tuổi vốn dòng cây si cù lần, ngớ ngẩn. Giọng mấy mợ gái xuân mơm mởn đào tơ, ỏng a ỏng ẹo kia xem ra còn dữ dằn, hung hăng hơn mấy ngài giám khảo khó tánh hạch thi vấn đáp Baccaleauréat
Dạo Bùi Minh Ngọc còn ở Phan Thiết và chơi nhạc, cuối tuần nào hắn cũng xách đàn guitar lội bộ xuống nhà Thanh Thúy ở đầu xóm Bình Hưng để dợt ca cho cô em dịu hiền, mang dáng vóc và giọng hát liêu trai này. Không ai ngờ rằng một vài năm sau khi tôi rời quê Thanh Thúy, Trần Thiện Thanh cũng vào Saigon và chẳng bao lâu họ đã sớm trở thành những ca nhạc sĩ hữu danh hàng đầu.
Lê Văn Nghê tay đờn
cứng cựa nhất của bọn tôi cũng theo vào đô thành học
saxophone. Năm 1963 tôi có gặp Nghê lúc anh ta làm nhạc
công cho các vũ trường Tabarin, Mélody và Văn Cảnh. Anh
này bị nhiều cuộc tình lao đao với mấy vũ nữ và nghe
nói vì khổ lụy quá mức nên đã quyên sinh vào năm 1967.
●●●
Lê Văn Khoa là con người
trí tuệ sung mãn. Anh nhiều tài năng quá. Nhưng với tôi,
anh mãi mãi là một nghệ sĩ chân chính, với một tâm hồn trong sáng, một tấm lòng vị tha, một vị niên
trưởng tài đức mà tôi hằng kính phục, ngưỡng mộ.
Cũng như 2 lãnh vực
nói trên, về âm nhạc Lê Văn Khoa cũng là người tự học
đàn trên các phiếm đàn vẽ trên bàn gỗ. Cơ duyên may
đã đến với chàng thiếu niên có năng khiếu bẩm sinh
về nghệ thuật và âm nhạc này khi anh một cặp vợ
chồng người mục sư Mỹ: Dr. Elton và bà Evelyn Wallace. Họ
lúc ấy đang phục vụ tại nhà thờ Cơ Đốc Phục
Lâm (Seventh Day Adventist Church). Ông, bà Wallace là những
người thầy tiên khởi đã dạy cho anh trau dồi, tôi
luyện trên cây dương cầm của họ và khi anh đã đạt
tới trình độ cao thì vị mục sư khả kính kia có lẽ
chợt nhận chân, khám phá ra Lê Văn Khoa có những năng
khiếu thiên phú đặc biệt để dễ thăng tiến trên sự
nghiệp âm thanh học nên ông đã truyền dạy, đào luyện
anh một cách tỉ mỉ về sáng tác, soạn nhạc hòa âm
cũng như cung cách, nghệ thuật điều khiển ban nhạc.
Đó có phải là ân sủng vô
lượng mà Lê Văn Khoa đã thừa hưởng từ sự giáo huấn
của cha, của thầy mà anh hằng và mãi mãi kính yêu? Hay
đó là do, nhờ sự cần cù, trầm tư, khải ngộ của
anh, của Thượng Đế đã ưu đãi, ban tặng cho vị thanh
niên sớm có lòng bác ái, bao dung này hoặc đó là kết
quả của một sự hài hòa, tổng hợp nhiệm mầu tất cả
các yếu tố nói trên?
Hơn ai hết, hiện nay với độ
tuổi đã quá “cổ lai hy” của một người thức ngộ,
chắc hẳn anh đã chiêm nghiệm và tìm ra đáp số cho câu
trả lời, cho vấn nạn mà những bằng hữu, huynh đệ
của anh còn phân vân, chưa khẳng định được.
Vicki Riley, Tiến
sĩ Nhạc Ứng Dụng đã từng viết về anh:
"Thật là tuyệt vời, tôi nghĩ đây là tuyệt tác hay nhất của Lê Văn Khoa. Với phong cách phương Tây và đặc biệt là giai điệu ngũ âm êm đềm, thánh thoát được hài hòa chặt chẻ qua các nhạc phẩm này. Âm thanh thật là lãng mạn, tươi vui và luôn luôn đầy thú vị, hứng khởi. Các nhạc sĩ người Ukraina đã thực hiện một công việc tốt đẹp để quang diễn, minh giải và trình tấu với một kỹ năng tuyệt vời. Họ thực sự đưa ra được, tạo nên những ấn tượng xúc động, truyền cảm và niềm đam mê của người viết." [4]
Với hơn 600 nhạc phẩm
và tấu khúc mà anh đã sáng tác bằng tâm huyết, bằng
sự sáng tạo anh đã cống hiến cho nền âm nhạc một
gia tài đồ sộ quí báu. Một số các hòa âm, hợp âm
này đã được đưa vào:
- Các sách dạy đàn dương cầm như: Giáng Sinh Ca [Chrismas Songs], Nhạc Việt Mến Yêu [My Beloved Vietnamese Music Book], Trúc Xinh [The Beautiful Bamboo], Gợi Nhớ - Ca Khúc Nghệ Thuật [Vietnamese Art Songs], Dân Ca Vietnam [Vietnamese Folk Songs] [5]
- Các CDs nhạc như: Lullaby, Souvenir, Memories, Symphony Vietnam 1975 [5]
"Trái với cái buồn vấn vương của nhạc Việt Nam, những sáng tác của Lê Văn Khoa tuy có đau lòng nhưng tỏa ra niềm lạc quan và hòa bình.
Lê Văn Khoa không ngừng sáng tạo. Ngày hôm nay, con người mang danh hiệu nhà giáo, nhà báo, nhiếp ảnh gia, kế hoạch gia cho những đại hội văn hóa, chồng và cha của 3 con gái, vẫn tiếp tục cuộc sống nhiều sôi nổi. Ông soạn nhạc ở nhà, trên phi cơ, ở quán ăn, ở phòng mạch bác sĩ! Ông nói chuyện với bàn tay di động, gõ trên phím đàn vô hình, điều khiển trong không gian ảo!
Bác sĩ Nguyễn Thế Hùng, một chuyên gia gây mê ở California, tốt nghiệp Trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn, là một người ái mộ của Lê Văn Khoa, cho biết cảm nghĩ như sau:
Ngay khi tôi nghe Bản Giao Hưởng Việt Nam 1975, tôi bị choáng váng ngay tức khắc! Vẻ sang trọng uy nghi của khúc nhạc mở đầu gần làm tôi quên đi cái nguồn cội khiêm nhường và thôn dã của chủ đề. Sự khai triển tiếp sau đó rất uyển chuyển, rất có lý, làm cho toàn bộ phần thứ nhất của Bản Giao Hưởng như một thực thể thống nhất. Làm sao một nhạc phẩm đẹp như thế mà chỉ dùng có 5 nốt nhạc?” Để trả lời câu hỏi trên, tác giả Bản Giao Hưởng Việt Nam 1975 trả lời: “Cứ xem Chopin, Debusssy hay Liszt. Họ cũng đã dùng ngũ cung”.[6]
[Jackie Bong-Wrigh – Ca Ngợi Tự Do]
Về nguyên nhân của sự hòa hợp, ứng dụng mới lạ này anh đã giải thích:
●●●
Bằng những hiểu biết sâu
rộng, bằng đam mê và năng lượng đáng ngạc nhiên, Lê
Văn Khoa đã gây cảm xúc, tạo ấn tượng mạnh cho hàng
vạn khán thính giả trong nhiều năm qua với phương pháp
tiếp cận độc đáo của mình, để trình giải âm nhạc
dù đó là qua các buổi trình diển hay những cuộc thảo
luận, hội thoại.
Cuộc xuất
hiện mới nhất trước công chúng của chương trình âm
nhạc Lê Văn Khoa là tại Rachel
Schlesinger Concert Hall ở Alexandra - VA vào ngày thứ bảy 9
tháng 11 năm 2010 vừa qua với chương trình Ca Ngợi Tự Do
(Ode to Freedom) cùng dàn nhạc Kyiv Symphony
Orchestra & Chorus nổi tiếng khắp thế giới với hơn
100 nhạc sĩ và ca sĩ tài danh cùng sự tham gia của Ban Hợp
Xướng Vùng Hoa Thịnh Đốn
Qua lời giới
thiệu của Ban Tổ Chức thì đó là một chương trình đặc
biệt để kỷ niệm 35 xa quê hương và tưởng niệm các
nạn nhân bị chết thê thảm trong ngày 9 tháng 11 năm
2001. Ban nhạc quốc tế xứ Ukraine đã trình diển các
nhạc phẩm nổi tiếng trên thế giới và nhạc dân ca
Việt Nam do chính anh Lê Văn Khoa soạn hòa âm và phối
khí.Theo giới truyền thông, báo chí và truyền hình đã tường thuật lại thì buổi buổi trình diển này rất thành công và đã được các nhạc sĩ, nhà soạn nhạc nước ngoài cũng như đồng bào dự thính nhiệt liệt khen ngợi, tán thưởng.
Cô bạn gái
Tiểu Thu của tôi là một người rất kính mộ cá nhân
Lê Văn Khoa và say mê nhạc của anh. Cô đã không bỏ lỡ
cơ hội vừa qua để cùng chồng từ Canada đã bay về Washington D.C. hầu được thưởng thức chương
trình Ca Ngợi Tự Do. Tiểu Thu cho biết vợ
chồng cô đã rất hoan hỉ, hài lòng về buổi đại hòa
tấu, hợp ca, hợp xướng đầy xúc động, đáng ghi nhớ
đó.
Xin cảm ơn anh.
Xin cảm ơn anh Lê
Văn Khoa - người nhạc sĩ tài hoa, người nghệ sĩ chân
chính đã dành suốt cả đời mình, đã đem tất cả tâm
huyết của mình để phục vụ, cống hiến cho quê hương,
làm vẻ vang cho nòi giống Việt.
Khi nghĩ đến anh tôi đã nhiều
lần tự vấn: Không biết con người kỳ diệu, hiền hòa
đứng tuổi này sẽ còn đủ sức đi thêm bao lâu, bao xa
trên hành trình âm nhạc nghệ thuật để khai phá, sáng tạo, xiển
dương sự tuyệt mỹ của thiên nhiên trong kho tàng âm
nhạc, trong tình tự dân tộc.
Một lần nữa xin cám
ơn anh Lê Văn Khoa. Cám ơn anh về những đóng góp của anh cho đời,
cho người. Quả thật, anh là một tấm gương sáng,
trong suốt về tài năng và đức độ, xứng đáng cho các thế
hệ trẻ hôm nay và ngày mai học hỏi, noi
theo để tiếp nối hành trình thăng hoa và làm đẹp cuộc sống.
GHI CHÚ:
● PBTD chuyển ngữ từ nguyên bản:
[1]
The wise man must remember that while he is a descendant of the past,
he is a parent of the future.
[Herbert
Spencer]
[2]
Photography was the medium preeminently qualified to unite art with
science. Photography was born in the years which ushered in the
scientific age, an offspring of both science and art.
[Berenice
Abbott,
Art
in America, Winter 1959]
[3]
It is excellent; I think this is Le Van Khoa’s best. The Western
Style and pentatonic melodies combine especially well in these
pieces. The sound is romantic, fresh and always interesting. The
Ukrainian musicians did a fine job of interpretation and played with
great skill. They really brought out the moving impressionism and
passion of the writing.
[Vicki
Riley, Doctor of Applied Music]
[4]
A real musician feels in his heart the love that a composer feels.
Music has no boundaries.” [Svyatoslava Semchuck, professor of
violin at the National Tchaikovsky Conservatory of Music in Kiev]
[5]
Các CDs và tài liệu trau dồi, học tập âm nhạc này quí
vị nếu cần có thể tìm xem hoặc đặt mua qua:
http://levankhoa.bigcartel.com/
[6]
Phan Anh Dũng dịch từ " Ode to Freedom của Jackie Bong-Wright":
Khoa has not stopped creating. Today, this teacher, journalist, photographer, cultural festival planner, husband and father of three daughters, leads a hectic life. He composes at home, on airplanes, in restaurants, at doctors’ offices. He speaks with his hands fluttering, tapping invisible keys, conducting in a virtual space. Dr. Hung Nguyen, an anesthesiologist in California and a graduate of the National Conservatory of Music in Saigon, is one of Khoa’s fans. “The moment I listened to his 1975 symphony, I was immediately blown away! The majestic opening of the first movement almost makes me forget the humble, rural origins of the main theme. The development that follows is so fluid, so rational, that the entire first movement sounds like one unified entity. How can such a beautiful piece utilize only five notes? To which the author replied, “Just look at Chopin, Debussy, or Liszt. They also use the pentatonic scale.”
[Jackie Bong-Wright * Ode to Freedom]