Wednesday, November 30, 2011

ĐẶNG LỆ KHÁNH * sợi khói trong hồn





Chàng nhạc sĩ gần nủa đời người, sống giữa thành phố nhộn nhịp ánh đèn, rộn ràng xe cộ, quay theo cơn lốc của đời sống đô thị, có một buổi chiều lái xe chở người yêu bé bỏng ra ngoại ô, ghé vào một khu vườn trống nhà ai, có khoảng đất cao nhìn ra đồng ruộng đang trổ lúa thơm . Nàng trãi vạt áo dài sau lên vạt cỏ cho chàng ngồi, không ngại rằng về nhà mẹ hỏi. Nàng sẽ thưa là qua cầu bụi bám, là đường phố quá đông, là chợ không được sạch, thiếu gì chuyện để thưa về một vạt áo bám bụi đường.

NGUYỄN ĐỨC NHƠN * Bóng Thời Gian





Hưng phế ngàn năm giấu mặt
Cổ kim luận tội anh hùng
Trái đất ngàn năm què quặt
Sao khuya rớt giữa muôn trùng

Hình nộm mặc áo long bào
Xua tay đuổi bầy ngạ quỷ
Mặt nạ ngàn năm giấu kỹ
Bùa mê rải khắp tinh cầu

Tuesday, November 29, 2011

PHAN BÁ THUỴ DƯƠNG ◙ Nói Với Thiền Khách


Cánh hạc nào bay trong triền nắng sớm
tiếng hót xa xăm
như tận cõi trời ...
sao u trầm chất ngất khách thiền ơi
xin nhẹ bước trên lối mòn tỉnh lặng


Rừng cô tịch có gì đâu tra vấn
lửa chân như có đủ ấm linh hồn
đất bùn nào còn in lại dấu chân
tâm vô niệm đường xa gần đi mãi

PHẠM TÍN AN NINH * Một Chuyện Tình Cao Quý


tranh Nguyễn Trung

1-

Mallorac, hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong quần đảo Balearic. Trước khi đến đây, vì nghi là đảo, nên tôi tưởng chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trường Palma rộng lớn, kiến trúc tân kỳ, sang trọng còn hơn nhiều phi trường quốc tế khác mà tôi đã từng đi qua. Palma là thủ phủ tráng lệ của Mallorca, nằm trên một dãy đồi cao nhìn xuống biển xanh. Đặc biệt khu nhà thờ Cathedral nằm bên cạnh giáo đường Mussulman, gồm những kiến trúc độc đáo, nổi tiếng theo kiểu Mediterranean Gothic từ thế kỷ thứ 13.

Monday, November 28, 2011

MH HOÀI LINH PHƯƠNG * Chỉ Một Saigon











Vẫn chỉ một Saigon trong ký ức….
Tưởng chừng như ngày ấy… mới hôm qua
Phố Lê Lai em dáng nhỏ nhạt nhòa
Mi thầm lặng tiễn người ra mặt trận

PHẠM TÍN AN NINH * Về Cái Chết Oan Khuất Của Nhạc Sỹ MINH-KỲ


“Nha Trang là miền quê hương cát trắng
Có những đêm nghe vọng lại, ầm ầm tiếng sóng xa đưa
Nha Trang cánh đồng bao la bát ngát
Hương quê dâng lên ngào ngạt, hòa cùng sức sống yên vui
.......

Ai ơi, người về cho ta nhắn với
Nha Trang quê hương dịu hiền, ngàn đời lòng tôi mến yêu”



Ai đã sinh ra và lớn lên ở Nha Trang, hoặc đã từng ghé lại đây đôi lần, đều không quên bài hát dễ thương này, mà cả một thời gian gần hai thập niên, đài phát thanh Nha Trang đã dùng làm nhạc hiệu mở đầu.

LỆ KHÁNH * Đêm Không Ngủ



Cháu cũng biết chú bây giờ quên hết
Chuyện ngày xưa từ ước hẹn ban đầu
Chú trả về cho quá khứ dài sâu
Cháu tiếc nuối chuyện tình trong ngang trái

NGUYỄN MẠNH TRINH * Tomas Transtromer, giải Nobel văn chương 2011


Tomas Transtromer
Hàn Lâm Viện Thụy Điển vừa công bố kết quả giải Nobel văn chương năm 2011 cho thi sĩ người Thụy Điển, Tomas Transtromer. Ông là một trong bốn tác giả được nhiều cơ quan truyền thông có uy tín chọn lựa trong danh sách có thể đoạt giải là tiểu thuyết gia Nhật Bản Haruki Murakami, nhà thơ người Syrian Adonis 81 tuổi, ca sĩ nhạc sĩ và nhà thơ Hoa Kỳ Bob Dylan và Tomas Transtromer người Thụy Điển 80 tuổi. Ông nổi tiếng vì những bài thơ có phong vị ngọt ngào, ngôn ngữ có nhiều tầng và đa diện, cũng như nhiều khám phá về liên hệ con người và thiên nhiên và những góc cạnh ẩn tàng trong tính nhân bản mà với công việc của một người trị liệu tâm lý đã tạo cho ông những cảm hứng để sáng tác. Trong những năm trước ông là người nằm trong danh sách những tác giả nổi danh hy vọng đoạt giải như Philip Roth, Joyce Carol Oates, Salman Rushdie, Comac McCarthy.

THIẾU KHANH * Phân Vân



Thì cũng mang theo tiếng khóc đầu 
Ra đời xương máu cũng như nhau 

Trăm nghìn năm trước người đi trước 
Cũng giống nghìn sau kẻ đến sau


Nhưng bỗng hoang mang đến sững sờ 
Một lần nào đó ngỡ bâng quơ 

Trong đêm thăm thẳm nghe chồn dậy 
Nỗi nhớ vô cùng nhớ ngẩn ngơ

TUỆ SỸ * Tôi Vẫn Đợi



Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải 
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng 
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi 
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng. 

Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió 
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa 
Nhìn hun hút cho dài thêm Lịch Sử 
Dài con sông tràn máu lệ Quê Cha... 

Wednesday, November 23, 2011

LUÂN HOÁN * Cũng Đành


® Nguyễn Thị Hợp
  

nhẹ nhàng hai tiếng “em đây”
lòng anh trẻ lại như ngày xưa xa

xưa con gái, nay đàn bà
nhưng mà em vẫn chính là em thôi

lời thỏ thẻ ấm cánh mô
từ tim phổi đẩy dòng hơi dịu dàng

vịn lời em, anh mơ màng
hôn lên đôi mắt nai vàng dễ thương

đôi mắt mở sẵn con đường
cho hươu anh chạy bất thường theo em

đã vào tới được trái tim
tội nghiệp khoảng cách im lìm chắn ngang

tâm sự suông vẫn man man
lấp không kín nỗi nồng nàn cách xa

hẹn rồi hẹn cho đến già
ngọn đèn chung bóng khó mà thắp lên

Luân Hoán

Tuesday, November 22, 2011

VIỆT HẢI * Cali Mưa và Tháng Mười Một


Cali lại mưa rơi, tôi và cháu con trai lớn dạo bước ra khỏi bookstore trường trong campus đại học, mưa tuôn rơi đều đặn ướt nhòa kính cận của hai bố con tôi, trời bên ngoài lạnh quá, chúng tôi hướng về parking lot, may quá đến nơi rồi. Nam vội vặn máy sưởi và cháu cho xe chạy, tôi vươn tay vặn máy CD, bài hát quen thuộc xa xưa tôi vốn thích vang lên, "Rhythm of The Rain", của nhóm Cascade:

TRƯƠNG VĂN DÂN * Truyện ngắn chuyển ngữ

..” Dino Buzzati sinh năm 1906 tại Belluno, mất năm 1972 ở Milano (Italia). Trước khi viết văn, ông là họa sĩ, nhạc sĩ và nhà báo, từng là phóng viên chiến trường và phụ trách mục phê bình nghệ thuật cho Corriere della Sera, một nhật báo quan trọng nhất nước Ý. Với Sa mạc Tartari (1940), tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, ông đã trở thành một trong những tên tuổi lớn của thế kỷ 20. Nhiều truyện dài của ông đã được chuyển thành kịch bản sân khấu, phát thanh và truyền hình. Truyện Con chó gặp Chuá, đã được trình diễn trên đài truyền hình Pháp.

TRẦN HUIỀN ÂN * Hóa Thân Vách Đá

© Đào Hải Triều












Ta ở đây hoa vàng và lá tím
Núi thì xanh xanh mãi tận chân trời
Cây với cỏ suốt bốn mùa bịn rịn
Chưa một lần nghe sóng vỗ trùng khơi

Và cứ thế rồi cũng thành quen hết
Ta là ta con thác đổ lưng đèo
Ta là ta mây cao dàn trảng rộng
Nắng trong ngần rọi bóng nước trong veo


Ta cũng biết người xa xôi quá đỗi
Lòng mênh mông nào ai thấy bến bờ
Lòng thăm thẳm nào ai dò nông nổi
Một bước vào hun hút cõi hư vô

Thôi thì vậy bạn bè cùng cổ thụ
Nghe lời chim liên tưởng ấy lời người
Cánh bướm chớp từng trang thư gấp mở
Hóa thân in vào vách đá nơi nơi


Trần Huiền Ân

Monday, November 21, 2011

TUỆ SỸ * Thuyền Ngược Bến Không

Tuệ Sỹ

Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước
Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Thơ Viên Linh, Thủy mộ quan)

Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó, lúc nào đó, bao giờ cũng hấp dẫn như chuyện cổ tích. Mà hình như đó lại là những chuyện mà tuổi con nít của tôi được nghe nhiều hơn là chuyện cổ tích. Trong gia đình tôi, thỉnh thoảng thấy vắng đi một người lớn. Rồi lại nghe những câu chuyện thì thầm. Mấy chú, mấy anh lớn, đã từng ẳm bồng tôi, bỗng chốc họ trở thành nhân vật trong truyện cổ tích. Cách mà người lớn kể chuyện, lại làm cho không khí của chuyện cổ tích ấy càng trở thành huyền bí.

Cho đến khi lai rai đọc được tiếng nước ngoài, chuyện kể về chiến tranh bỗng thành hoài niệm; hay chỉ hình như là hoài niệm thôi, vì đấy là quá khứ mà mình không thấy, không nghe. Có điều, hoài niệm ấy không làm sao mờ đi được. Vì nó đã trộn lẫn quá khứ với hiện tại. Quá khứ ấy, khi chợt biết, nó đã có quá nhiều mất mát. Vì những người đã đi, chưa thấy ai trở lại. Rồi cả những người cùng trang lứa cũng lần lượt ra đi. Mình thì may mắn được ở lại. Nhìn quanh, bảng đen, lớp học, sân trường. Sự sống vẫn băng băng lôi người đi tới, với những cạnh tranh vất vả.

Chiến tranh, thù hận, và đâu đó, từ sâu thẳm của khát khao, tình yêu và sự chết là nỗi ám ảnh, và như chất liệu cho ý thức sinh tồn. Có một cõi thi ca riêng biệt như vậy. Dành cho những tâm hồn nhạy cảm. Nhìn con chim giãy chết trong tranh mà ngơ ngẩn, bàng hoàng. Nhưng ngôn ngữ của nó cũng biến hình. Tình yêu, thất vọng, đam mê, như những con sóng nồng nhiệt trên mặt nước, mà dưới đáy sâu ai biết ẩn chứa những gì.

Nước xa cuồn cuộn ra khơi
Sâu trong tâm thể có đôi giọt gần
(Dư tập, Thủy mộ quan)

Những câu thơ như vậy thật hiếm hoi cho một đời bận rộn. Không bận rộn sao được, khi quanh mình những bạn bèn trang lứa lần lượt ra đi. Một số người vượt suối, vô rừng. Đi theo tiếng gọi của hận thù, máu lửa, trong trái tim đang bốc cháy bởi chủ nghĩa anh hùng. Để lại cho thành phố khúc hát “Người đã đi, đi trên non cao…” Một số khác ra đi, để lại tiếng khóc nghẹn ngào, điên loạn: “Ngày mai đi nhận xác chồng. Say đi để thấy mình không là mình.” Tình yêu, thù hận, bỗng trở thành mâu thuẫn biện chứng.

Mấy chục năm sau, một thế hệ đang lớn, như nắng trưa xích đạo che lu ánh đuốc quá khứ lập lòe của mình; thỉnh thoảng tôi đi tìm lại một vài câu thơ đâu đó, mà cũng không dễ gì tìm được, để cho hoài niệm quay lại một thời, trong đó mình đã sống, đã suy nghĩ, ưu phiền, và cả đến những dại dột ngông cuồng của tuổi trẻ. Trong tình trạng mà người cũ lánh xa, vì hiểm nguy rình rập mơ hồ, thì chuyện biển rộng sông dài chỉ có trong tranh, và trong trí nhớ. Lại vẫn điệp khúc hoài niệm bâng quơ.

Tôi không đoán được bạn trẻ yêu thơ ngày nay, nếu tình cờ đọc được bốn câu thơ dưới đây sẽ gợi lên ấn tượng gì.

Nhưng người đã sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, mà tình yêu và thù hận là những xung đột, khắc khoải trong lòng, những câu thơ ấy gợi nhớ một thời, hay đúng hơn là một ấn tượng, có thể thoáng qua chốc lát:

Chiều về trên một nhánh sông
Bên tôi con nước đỏ lòng quanh co
Nước loang dưới đáy trời dò
Buồn tôi thánh thót trên lò nhân sinh
(Một Nhánh Sông, Dư Tập, Thủy Mộ Quan)

Đó là một chút hơi thở tàn sinh, như bóng nắng là đà trên mặt nước, không có những trầm mặc thăm thẳm trong lòng đại dương. Một nhúm cỏ xanh nhởn nhơ trên cánh đồng khô cháy. Nhưng ai có thể phê bình nhúm cỏ vô tình? Ấn tượng của một người đọc thơ từ trong hủy diệt bạo tàn của chiến tranh là như thế.

Rồi đất nước hòa bình, dân tộc đang trở mình từ trong khói lửa, để cho hận thù hóa thân thành tình yêu. Và cũng là lúc bắt đầu một thế hệ cầm bút bị khước từ. Vì đã không thể nhận thức tình yêu theo định nghĩa của biện chứng. Trong đó, tình yêu chỉ có thể trưởng thành bằng hận thù và hủy diệt. “Máu của người đem lại tình thương.”

Ngồi trên đỉnh đồi Trại thủy, giữa thành phố Nha trang, nhìn xuống bên dưới, từ trong làng kéo ra một đoàn thiếu nhi Tiểu học, hô vang khẩu hiệu chào mừng cách mạng, đả đảo văn hóa giáo dục phản động, đồi trụy. Tôi biết mình đang bị chối bỏ. Và bị chối bỏ thật. Từ chỗ là thành phần ăn bám, rồi trở thành phần tử nguy hiểm, và được liệt xuống hàng cặn bã xã hội, tạm tha tội chết để được ân huệ khoan hồng sống hết kiếp sống thừa. Lại một lần nữa, những người cũ của tôi theo nhau lần lượt ra đi. Thời chiến tranh, một lớp bạn lên rừng. Thời hòa bình, một lớp bạn xuống biển. Dân tộc chợt quay trở lại với huyền thoại mở nước. Những người con theo Mẹ, đã có lúc khinh ghét anh em mình, bỏ lên rừng. Một thời gian sau, những người con theo Mẹ lên rừng nay quay trở về đô thị. Lại những người anh em khác sợ hãi, vội bỏ trốn theo, tìm về biển:

Vua gặp Âu Cơ lúc thủy du
Cùng nàng rung động nước thiên thu
Duyên tan nàng bắt con về núi
Những đứa theo cha khổ đến giờ
(Thủy Mộ Quan)

Ba chục năm, một nửa theo Cha, một nữa theo Mẹ. Nhưng huyền thoại của nhà thơ này vẫn còn quên một số anh em trở thành côi cút. Cha thì ở đâu không thấy, mà tự thân thì bị ruồng rẫy bởi chính anh em mình ngay trên đất Mẹ. Không Cha, cũng không Mẹ, ta đi tìm dấu tích Trường sơn, “Quê người trên đỉnh Trường sơn. Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.” (Thơ Tuệ Sỹ).


Tôi không nói đến hận thù. Nhưng một nỗi oan khiên nào đó, khiến cho lời nói của mình như trong cơn mê sảng. Bạn cũ ở quanh đây thôi, vẫn gần như những ngày nào, một thời buồn vui. Có lẽ bạn cũ ngại ngùng, ngại nghe những điều được giả thiết là tôi sẽ nói. Thật sự, tôi chẳng được phép nói gì cả. Vẫn được chỉ định phải đứng bên lề xã hội đang hội nhập văn minh. Còn những bạn khác, hãy gọi là cố nhân, bấy giờ mỗi kẻ một phương trời. Tôi chẳng biết họ đang làm gì, đang nghĩ gì. Mỗi người một phong cách, trong một thế giới mở rộng, đa văn hóa. Tôi nghe nói như vậy.

Dù ở phương này hay phương kia, dù có hay không có hai trận tuyến văn chương cùng chung loại hình ngôn ngữ của Mẹ, vẫn còn hàng vạn nắm xương dưới lòng biển:

Lưu vực điêu tàn ở Biển Đông
Xương bầy như thú cháy rừng hoang
Nhưng rừng không cháy nào đâu thú
Người chết thân chìm Thủy Mộ Quan.
(Viên Linh, Thủy mộ quan)

Hận thù có thể xóa được dễ dàng thôi, nhưng u uẩn của những hồn oan đáy biển vẫn ám ảnh tâm tư. Người sỗng vẫn mang mãi ân tình của người đã chết, dù trên rừng hay dưới biển, vì oan nghiệt riêng tư hay vì tình chung dân tộc. Xưa Nguyễn Du đã làm “Văn tế thập loại chúng sinh”; không chỉ là món nợ văn chương cho người đã chết, mà đó còn là tình tự thiết tha từ cõi chết vọng về. Tôi đọc bài “Gọi hồn” trong Thủy mộ quan cũng với tâm trạng tương tợ:

Trên Huyết Hải thuyền trồi về một chiếc
Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương
Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt
Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương.

(…)

Trong rêu xanh ngân ngật bóng sơn hà
Lướt hải phận về dưới trời cố quốc.

(…)

Bài thơ không mang tiết nhịp gây cảm xúc bàng hoàng tức khắc, nhưng những ấn tượng rải rác trong cả tập Thủy mộ quan làm cho bài thơ phảng phất nỗi kinh sợ, rùng mình:

Trinh nữ trầm oan nổi giữa dòng
Thân băng ngàn hải lý về sông
Xung quanh không một người than khóc
Chỉ cá trùng dương theo hộ tang.

Dù sao thì đất nước cũng đang hồi sinh. Những người ra đi, lần lượt kéo nhau về. Ấy thế, hờn giận giữa anh em vẫn còn là vết thương nhức nhối. Văn chương bây giờ vẫn là một lựa chọn, hoặc một nhân cách. Thi ngôn chí. Thiên cổ văn chương thiên địa tâm. Trong tận đáy sâu tâm khảm, mỗi nhà thơ vẫn chung một tình tự nghìn đời, dù biểu hiện có hận thù cay nghiệt. Tôi mong được như lời Viên Linh nói:

Sinh ở đâu mà giạt bốn phương
Trăm con cười nói tiếng trăm giòng
Ngày mai nếu trở về quê cũ
Hy vọng ta còn tiếng khóc chung.

Tuệ Sỹ

DOÃN QUỐC SỸ * Vùng Trời Thi Ca Lý Thụy Ý


Tôi đi vào vùng trời thi ca của Lý Thụy Ý, vùng trời chấp nhận khổ đau nhưng vẫn phủ hồng cảnh đường trường gai góc:


Dường đi không đầy hoa/Chỉ toàn gai chờ đợi/Ta hất đầu bước tới/Gai rạp dưới bàn chân.
…Nhưng thua thắng chi nhau/Ta ủ gai trong áo/Qua một đêm giông bão / Gai bỗng nở thành hoa “

( Gai ).

Sở dĩ có được thái độ bao dung đó vì Lý đã nhìn đời bằng con mắt hiền triết chấp nhận cả hai chiều sự vật:

“ Trong tình yêu chất đắng cũng rất cần
Ta chợt hiểu thiên đường là địa ngục “
( Những Bậc Thang Bước Hụt )

Một em bé mất cha, mất mẹ, sống một mình trên vùng đất xưa là tuyến lửa. Nhưng kìa, em vẫn luồn tay qua hàng rào kẽm gai…thì ra :

“ Thôi em hiểu rồi
Tay bé cầm cành hoa nhỏ
Ô hay…tại sao hoa vẫn có thể nở được
Trên vùng đất cằn khô máu đỏ

Thì ra…
Trong địa ngục có thiên đàng”
( Bé Và Cành Hoa )

“ Bây giờ chấp nhận niềm đau
Xa nhau…để mãi còn nhau trong đời
Em về xin góp nụ cười
Vòng tay ôm trọn bóng người tình xa “

( Cho Người Tình Xa )

Dưới vùng ánh sáng nhân bản bao dung đó Lý đi sâu vào tinh lý chân không của đạo Phật:

" Tồi ba mươi lễ chùa
Hoa trắng hơn áo trắng
Thắp nén hương giao thừa
Ý kim Cương vô tận “

Có những lúc Lý đẩy tia nhìn đến tận cùng của tuyệt vọng :

" Ta nhớ trăng cổ độ
Muốn về thăm Cô Tô
Tìm không ra Phạm Lãi
Làm sao đến Ngũ Hồ “

Nhưng khách quan chỉ là chất xúc tác cho chủ quan rỡ ràng tỏ lộ :

" Ta quên trăng cổ độ
Hết thèm nắng thủy tinh
Trong nhiệm mầu có thật
Ta tìm ra chính mình “

( Những Cơn Say Không Rượu )

Quả thật nếu không có mình, vạn hữu có đó cũng bằng thừa mà thôi.
Tôi không quên nhà thơ còn là một tiểu thuyết gia nữa, bởi vậy để kết thúc xin được nhắc đến nghệ thuật kể chuyện của Lý Thụy Ý trong một bài thơ điển hình
“ Bông Hồng Mùa Xuân “ :

“ Bán tôi một bông hồng đi,cô bé
Đóa nào tươi còn búp nụ mịn màng”

Cô bé đã ngước nhìn ông khác để rồi sau đó lựa cho ông ta một bông hồng” vừa ý nghĩa vừa sang “ tượng trưng cho tình nồng thắm vô bờ.
Khi ông khách trả tiền “ cô bé “ đã không nhận, đúng với ý hướng tâm tình lãng mạn của tuổi trẻ :
“ Một đóa hoa không bao nhiêu ông ạ
Rất mong ông làm người đẹp vừa lòng”

Nhưng ông khách đã cải chính :
“ Cô bé lầm tôi không tặng người yêu
Thằng bạn thân tuần qua vừa ngã gục
Một bông hồng cho nó bớt quạnh hiu”

“ Cô bé “ vẫn cương quyết từ chối không nhận tiền :
“ Tôi cúi mặt : xin gửi người xấu số
Chuyện của ông làm tôi bỗng nghẹn ngào”

Chàng trai quân nhân đã nhận bông hồng và “ cô bé “ trông theo bóng chàng trai khuất dần :
“ Khách quay đi áo hoa rừng đã bạc
Dáng cao gầy khuất hẳn – bóng chiều nghiêng
Tôi bất chợt đưa tay làm dấu thánh
Mẹ giữ gìn cho người ấy bình yên “

Rồi lòng xuân vương vương, má cô bé thêm hồng:
“ Tôi bâng khuâng nhớ đến người khác lạ
Mình nhớ Người, Người có nhớ mình không ? “

Cho tới chiều hăm chín nhìn phố phường tấp nập từng cặp đẹp bên nhau, mắt “ cô bé “ bỗng bừng sáng, người khách lạ hôm nào đã xuất hiện bất ngờ :

“ Tim đập mạnh sau áo hàng lụa mỏng
Anh đến gần lời nói cũng reo vui
-Sao cô bé, hàng hôm nay đắt chứ
Cô nhớ tôi hay cô đã quên rồi ?!”

Chàng trai kể là vừa hành quân về đã vội qua đây ngay, mua thêm bông hồng để làm người đẹp vừa lòng.
Làm người đẹp-của chàng-vừa lòng ! Làm sao mà lòng cô không thắt lại vì khổ đau :

“ Tôi bỗng nghe như tim mình thắt lại
Gượng tìm hoa rồi trao tận tay người “

Cầm bông hồng ánh mắt chàng trai bỗng dịu đi và-thật bất ngờ-trang trọng tặng lại” cô bé “ ngày nào :

“ Một bông hồng như hôm nào cô nói
…Là tượng trưng tình nồng thắm vô bờ”

Và cô bé đã :
“ Tôi run tay nhận hoa hồng Người tặng
Sự thật rồi…mà cứ ngỡ đang mơ…”

Câu chuyện tình dễ thương kết thúc bằng những vần thơ dễ thương như vậy.
Và cũng như vậy tôi đã đi vào vùng trời thơ của Lý Thụy Ý.


Doãn Quốc Sỹ


MH. HOÀI LINH PHƯƠNG * Phương Khúc


Đỗ Duy Tuấn
Tôi đã qua tuổi mười lăm, mười bảy
Áo lụa vàng, chân sáo nhỏ đường mưa
Tôi đã hết mơ mộng nào ấp ủ
Sao gặp người….. tôi xúc động.. buồn chưa?

Có phải mắt người nồng nàn, bão nổi?
Co phải môi người nhắn gửi thiêng liêng?
Tiếng đàn người ru một đời tưởng tiếc
Cho tôi tìm về kỷ niệm bình yên

Người như chiếc gương tôi soi mình trong đó
Tôi thấy lại tôi buồn bã, ưu phiền
Sống mệt mỏi, ngu ngơ như đời lá
Lặng lẽ, bất cần, kiêu hãnh, cuồng điên

Hình như….. tôi không yêu người, người ạ!
Bởi hồn tôi lạnh ngắt tự bao giờ
Bởi trái tim tôi đâu còn thắp lửa
Đâu thể nào đốt cháy được bơ vơ

Những gì người cho như một giòng thác lũ
Rồi sẽ nhòa….. như những giấc chiêm bao
Tôi sẽ nhớ..có một lần rất khẽ
Trái tim mình lên tiếng gọi xôn xao…


MH. Hoài Linh Phương

SƯƠNG MAI * Ký Tên













 
Anh yêu, hãy nói với em
Những lời âu yếm cho mềm lòng tin


Lắng nghe nhịp đập con tim
Thay lời giải thích, sao tìm về đây?

Hãy đưa cho em bàn tay
Cho em nắm lấy kẻo mai xa rồi

Hãy cho em trọn nụ cười
Đế mai sau... lỡ cuối đời lai quên

Ký vào đây anh... ký tên
Để lời anh hứa yêu em vẫn còn


Sương Mai

ĐẶNG TIẾN * NGUỒN SÁNG VÔ MINH

Bóng Chiều Hôm là tên tập truyện đầu tay của một tác giả không còn trẻ. Nguyễn Đặng Mừng sinh 1953 tại Quảng Trị, học xong trung học vào đúng lứa tuổi bị gọi vào quân đội Sài gòn ; 1975 đi học tập cải tạo vài ba năm, thêm vài ba năm bị quản thúc làm nông nghiệp tại quê nhà ; sau đó là mười năm làm nương rẫy tại Miền Đông Nam Bộ. Đến 1990 về Sài gòn sinh nhai. Trình bày như vậy để người đọc hiểu rõ căn cơ của mười bốn truyện ngắn trong Bóng Chiều Hôm.

Dế Mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài là truyện thiếu nhi, hoàn toàn hư cấu, nhưng biết rõ ấu thời của tác giả tại Nghĩa Đô, ngoại thành Hà Nội, thì người đọc thấm thía hơn. Gió Đầu Mùa của Thạch Lam cũng là phản ánh tuổi thơ ở phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Người ta vẫn thường nói : truyện đầu tay thường mang tự sự. Dần dần, tác giả mới tìm được khoảng cách, sử dụng trí tuệ, tưởng tượng và phần sâu kín của tâm linh, bên dưới những tình cảm lềnh dềnh, bên trên thế sự. Trường hợp của Mừng có khác : truyện đầu tay, nhưng không còn là quả chín bói.

Nguyễn Đặng Mừng bước vào văn học khi tuổi đã tra, mà người chưa kịp già, tri thiên mệnh mà đưa đành thủ phận. Là tác giả, anh chưa có sự nghiệp để hồi ký ; là con người anh không còn kiên nhẫn để tự sự.
Đấy mới là chuyện tuổi tác chưa nói đến sự đời anh đã từng trải : trước 1975 anh chưa kịp nợ nần gì với chế độ cũ để về sau 1975 phải trang trải cho chế độ mới : mười lăm năm truân chuyên là trọn nghiệp Thúy Kiều.

Do đó, truyện Nguyễn Đặng Mừng mấp mé thời gian ; nó là hiện tại chưa đành đoạn với quá khứ, chuyện riêng dàng dai dai dẳng với tình chung. Cốt truyện đơn tuyến, theo dòng thời gian, nhưng tình cảm xuôi ngược trong những xao xuyến khôn nguôi giữa dòng ý thức.
Ý thức làm bằng tình người trải dài trong lịch sử, qua bốn thập niên : thời chống Pháp 1945-1954, thời an lành tạm bợ 1954-1965, thời chiến tranh khốc liệt 1965-1975 và giai đoạn đổi đời 1975-1986. Bốn thập niên cân phân. Nhưng đặc điểm là vào giai đoạn cuối, truyện Nguyễn Đặng Mừng linh hoạt, vừa sôi nổi, vừa sâu lắng. Nó là một chứng từ xã hội và nhân đạo hiếm hoi trong văn chương Việt nam hiện nay. Truyện bày ra những ngang trái, nghịch lý, cười ra nước mắt. Nhưng đọc vẫn thoải mái vì tác giả không có dụng tâm chính trị, tuyên truyền cho một chính kiến, hay giải tỏa hờn căm.

Anh có cái dí dỏm nâng nhẹ tềnh tênh áp lực của lịch sử, và cái dịu dàng để xoáy sâu vào tình cảm con người, ở đây là con người nghèo khổ ở nông thôn. Dí dỏm và dịu dàng, nghệ thuật Nguyễn Đặng Mừng một mặt giải oan cho lịch sử trước mắt định mệnh cá thể, mặt khác hóa giải cho con người oan khuất trước tòa án cộng đồng và công luận.

Nhiều chuyện oái oăm, phơi bày những yêu cầu u tối, thầm kín trong con người. Chuyện tình dục dồn nén người phụ nữ nông thôn chẳng hạn, thì ở đâu, thời nào cũng có. Nhưng ở địa phương này, trong thời điểm này, đám cháy của lịch sử bất ngờ soi sáng. Giọng kể Nguyễn Đặng Mừng hấp dẫn vì ranh mãnh, nhưng không gợi dục, mà còn biện minh cho con người, chủ yếu là phụ nữ, qua những quan hệ tính dục mấp mé ở men bờ đạo lý.

Mô tả những nghịch cảnh, ngòi bút Nguyễn Đặng Mừng chứng tỏ lòng nhân ái đã vượt khỏi những thành kiến xã hội. Có lẽ nhờ hai lý do : tác giả có tâm hồn tài tử, đi qua cuộc đời như lữ khách ; mặt khác anh đã tạo được khoảng cách, độ lùi để nhìn lại những nghịch cảnh đã vượt qua, mà anh là nạn nhân. Thúy Kiều mười lăm năm lưu lạc mới đến Tiền Đường ; Nguyễn Đặng Mừng phải đợi thêm mười lăm năm nữa mới viết văn, khi những oan trái đã phôi pha. Nhưng không phải vì thế mà tâm cảnh nhạt phai.

Truyện Nguyễn Đặng Mừng ngồn ngộn cuộc sống, ngổn ngang hiện thực, nhưng không thù hận, cay chua. Thường thường kết thúc có hậu, không phải vì thủ thuật hay ước lệ, mà vì tâm đạo của tác giả như vậy, đã tạo nên những nhân vật như vậy, con người thủy chung. Không nhất thiết chung thủy với ai đó, mà chung thủy với bản thân, với cái gì đó vô danh trong tiềm thức.
Truyện Nguyễn Đặng Mừng chung quy là chuyện những con người tìm một lối về. Chị Thuyết trở về một nấm đất trên Đồi Ma, cô Nhan Về Làngđể đắm thân hình trong một ruộng khoai ngập nước. Ông cụ Hoan sáu mươi tuổi ở nước ngoài cũng tìm về với ao sen thơ ấu.
Truyện Nguyễn Đặng Mừng là chuyện tình, có tình yêu mà không có tình nhân. Tình yêu có khi có đối tượng nhưng chưa kịp thành đối tác ; đôi khi đối tượng chưa thành nhân diện trong ý thức mà vẫn rạo rực trong từng thớ thịt. Do đó, tình yêu, hiểu theo nghĩa hẹp, lẫn lộn mơ hồ trong tình chú cháu, chị em, dòng họ, như ngọn lửa ma trơi chờn vờn giữa loạn luân và đạo nghĩa.

Mỗi xã hội có khái niệm loạn luân riêng, ở đây chúng tôi dùng theo nghĩa rộng, trong đó, có khi đạo nghĩa dẫn đến loạn luân, nghịch lý mà Nguyễn Đặng Mừng đã nêu lên được nhờ một tiềm năng sáng tạo nào đó – mà có lẽ chính anh cũng không ý thức – đừng nói gì đến giải thích. Chức năng sáng tạo nghệ thuật trong con người là một nguồn sáng vô minh – như ngọn đèn Khương Linh Tá một đêm Sơn Hậu.

Văn chương Nguyễn Đặng Mừng hiện thực, chân thực, ngay thẳng, thành hình được là nhờ có trào lưu Đổi mới từ 1986. Trào lưu này, ngay thời kỳ đầu, đã có những thành tựu nhất định về truyện ngắn. Vậy cũng nên đặt Bóng Chiều Hôm vào khung cảnh đương đại. Cùng phê phán những mặt tiêu cực của xã hội trong giai đoạn đổi đời, Nguyễn Đặng Mừng không thâm trầm như Nguyễn huy Thiệp mà có người cho là tàn nhẫn ; cũng không có nét sắc sảo của Nguyễn Ngọc Tư mà có người cho cường điệu. Nhưng anh thật thà phản ánh được thời sự của Miền Nam trong thời điểm gọi là cải tạo, với những truân chuyên, bất công và phi lý, và phản ánh với tầm nhìn thông cảm, độ lượng. Với rất nhiều tinh anh giọt thêm một giọt tinh ranh. Đặc tính của Bóng Chiều Hôm là lối kể thuyện Miền Nam linh động dựa trên nhân đạo, tóm lại trong mấy chữ : điệu nghệ và đạo nghĩa.

Truyện Nguyễn Đặng Mừng là chút nghĩa cũ càng, dưới một phong cách trẻ và mới.
Đặng Tiến 

Saturday, November 19, 2011

BÙI GIÁNG * Ði Vào Cõi Thơ Tuệ Sỹ

Tuệ Sỹ

Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u.... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông :

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi

Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết :

PHAN BÁ THUỴ DƯƠNG ◘◘ Wilbert Rideau : Kẻ Tử Tội Tất Học Trở Thành Một Cây Bút Lừng Danh


“Tương lai mỗi tội nhân là một vị thánh.
Quá khứ mỗi vị thánh là một tội nhân.” Saint Augustine 
Wilbert Rideau


Không phải kẻ nào mang án tử hình cũng hoàn toàn tuyệt vọng, mất đi niềm tin về sự sống còn của mình. Thảm trạng cùng nhục cảnh tù đày nhiều lúc lại là môi trường, cơ hội tốt để con người có thể phát huy, ghi lại những suy tư, những khổ ải, gian truân mà họ đã kinh qua, chiêm nghiệm… Tác phẩm của những kẻ khổ nạn này thường được người đọc ưu ái đón nhận và nhiều khi được xem, liệt vào hàng kiệt tác trong các lãnh vực báo chí, văn học, chính trị…

Friday, November 18, 2011

PHAN BÁ THUỴ DƯƠNG * ngày về an-hữu

© Thái Đắc Nhã
.
Từng cơn mê đắm run theo gió 
đậu gót chân sen em mỹ miều 
mương lạch nào say quên tình tự 
nên hồn rêu đá cũng đìu hiu

PHẠM QUỐC BẢO ** Nhớ Bạn


© Đào Hải Triều

gởi Trần Tuấn Kiệt

đèn vàng rẽ lối sương mù
bước chân lững thững trải từ đường riêng

chợt nghe nư lạnh vào đêm
nhớ thầm đến bạn đâu miền xa xăm

tết này vừa đúng một năm
nhớ quên mấy lượt cũng ngần ấy thôi

với tay cuộc sống đổi rời
ta đang lang bạt nhớ người trầm luân

Phạm Quốc Bảo - 1982

PHƯƠNG TRIỀU * Kỷ niệm với Tô Thùy Yên



Bài thơ trong quán nhậu 
Chỉ là một bước, bước trờ,
Mà rồi từ đó tới giờ biệt tăm.
Bao lần chạy vạy hỏi thăm,
Hỏi chưa ra, đã trăm năm, sững sờ.
(Biệt Tăm - TÔ THÙY YÊN)

TRẦN HOÀI THƯ ** Đôi Mắt

® Lương Trường Thọ

Thêm một mùa thu trở lại. Thêm một bầu trời trắng xám như mang theo một nỗi buồn, cúi đầu đưa ti­n những ngọn lá trở vàng. Và với tôi, thêm một khóa học nữa lại trở về.

Tôi bắt đầu mang lại chiếc áo len mỏng, bỏ lại tập vở, cuốn sách vào school bag để tiếp tục cuộc hành trình. Kiến thức hay là cơm áo. Có lẽ là cơm áo cũng nên. Cái giấc mơ hôm qua của một tên đàn ông da vàng, đến từ một đất nước nghèo khó, lạc hậu, tai ương, trước một thế giới văn minh kỹ thuật, bao bọc bởi computer, điện thoại, fax, bây giờ đã trở nên buồn nản. Hay tại số tuổi của tôi, chẳng khác những chiếc lá vàng đầu tiên rụng xuống trên thềm cỏ. Mùa thì lúc nào cũng về đúng hẹn. Nhưng trong tâm hồn tôi, mùa đang thay đổi theo từng bánh nhịp của thời gian. Hôm qua, bao nhiêu phấn kích khiến tôi đêm ngày tìm tòi học hỏi, như một tên vô sản được chia một gia tài giàu có. Hôm qua, tôi đến trường, tai căng, mắt miệt mài, hồn đắm chìm trên trang sách vở. Hôm qua, tôi cứ nao nao đợi chờ ngọn gió chuyển mùa. Nhưng bây giờ, mệt và cô đơn. Mười hai năm làm việc với chừng ấy thứ. Cobol thì cũng như Fortran, thì cũng như C++. Unix thì cũng như IBM. Perform thì cũng như Do. Object thì cũng như không Object. Tất cả thì cũng là những bit 1 bit 0 trùng trùng điệp điệp luân lưu bằng tốc độ sấm sét. Nhưng chao ơi, trong tôi, trên da thịt tôi, những sợi tóc của tôi, não bộ của tôi, còn trăm ngàn bit đời sống tiếp tục bỏ đi theo từng sát na. Để lại nỗi u hoài, hụt hơi, đuối sức.

Nhưng dù muốn dù không, tôi vẫn lái chiếc xe gần hai tiếng đồng hồ từ nơi tôi làm việc đến trường. Khóa học này là khóa cuối. Có nghĩa là sau đó, tôi sẽ được cái bằng để treo, được viết thêm trên tờ Resumé thêm một bằng cấp và được tăng lương. Cứu cánh cuối cùng cũng vẫn là chừng nấy.

Như vậy, tôi đã trở lại cùng những dãy lầu gạch màu hỏa hoàng, vươn lên bên dòng sông Hudson. Như vậy, gã trung niên đang trở về, để bước lại trên hành lang xôn xao tuổi trẻ. Tôi lại bắt đầu hòa nhập vào cõi rộn ràng của sân trường. Những hàng sồi cổ thụ. Đám sinh viên trai gái đang ngồi tụm năm tụm ba trên bãi cỏ. Những con chim bồ câu đang đậu trên bức tượng đồng đen to lớn giữa sân. Tự nhiên tôi nhớ đến Như Hạ. Nhớ nàng đến thê thiết. Hình như con người chỉ có một thời tươi đẹp để ấp ủ nâng niu. Tôi cũng có một thời tươi đẹp như thế. Thời mà những gót chân người con gái nào để hoài, in hoài bãi vườn lòng tôi. Tôi đang chứng tỏ một tay phản động đĩ điếm sắp lấy một cái bằng xứ Mỹ, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị thua lỗ một lần. Một lần quá đau, quá nặng. Đau bởi vì nàng thì xa vòng tay của tôi một cách tàn nhẫn. Nặng như nỗi buồn tôi mang theo suốt cuộc hành trình luân lạc này.

Em yêu dấu. Tôi lại thấy em. Như đêm nào quanh lửa trại, trên bờ biển Thuận An. Như đôi mắt em sâu thẳm âm u, và mái tóc mun đen chảy dài cả bờ lưng em mềm mại. Ngày xưa, mà như hôm qua. Tiếng sóng đêm nào, rì rào bất tận. Ngọn lửa bạt bởi gió làm gương mặt em khi ẩn khi hiện. Tôi giấu đôi mắt cuồng đắm, nhưng lòng tôi reo lên tiếng reo từ những khúc củi bốc cháy giữa vòng người. Em được tiếng là người con gái có giọng hát hay nhất trường. Vì thế lũ bạn không chịu buông tha em. Tôi vốc một nắm cát thả xuống, để giấu con tim. Tôi muốn ghen tức. Tôi muốn tiếng hát kia là riêng. Tôi muốn tôi là một người độc nhất để chiêm ngưỡng em, và em chỉ biết có mỗi mình tôi mà cống hiến. Đêm ấy, trăng và sao lung linh kh¡p bầu trời Thuận An. Đêm ấy, những vì sao Đại Hùng Tiểu Hùng ở đâu để tôi còn ước ao trở thành người chăn cừu trên thảo ngàn, để cô bé ngủ quên trên vai. Đêm ấy em ngồi yên trên bãi cát, vầng trăng sáng vằng vặc, chảy lai láng trên mái tóc dài đen mượt như một dòng suối trăng. Tôi đến bên em. Như Hạ chưa ngủ hay sao? Không, em chưa buồn ngủ. Đêm ni trăng sáng quá anh Minh hỉ. Tôi nói Như Hạ hát hay quá đi. Em làm khối chàng trai si em. Em mà ai si. Anh nói thật tình. Trong số đó có cả anh... Thật vậy sao, em mừng quá đi. Nàng nói thật lòng hay chỉ là lời đầu môi chót lưỡi. Dù vậy tôi cũng cảm thấy thật vui. Đêm càng về khuya, gió càng lạnh. Bầu trời dường như càng thấp hơn. Và ánh trăng th¡m vàng một bãi biển chảy dài. Những đôi nam nữ đã dẫn nhau tìm chỗ trò chuyện. Lúc này, bếp lửa trại đã tàn, chỉ còn những miếng than hồng sót lại, cháy dang dở. Tôi muốn ngồi sát vào nàng hơn nhưng tôi không dám. Nhưng tôi nghe lòng đâm ấm áp lạ kỳ. Được ngồi bên một người con gái xinh đẹp, được trò chuyện vu vơ, được nghe những lời thỏ thẻ, được nhìn cả một suối tóc lai láng ánh trăng, như vậy cũng đủ cho một tên thanh niên cảm thấy hạnh phúc lắm rồi. Một đôi bạn gái của Như Hạ đã đến bên chúng tôi lúc nào. " Thì ra con Như Hạ ở nơi ni. Mi bắt bọn tau phải chạy đi tìm trối chết. Cứ tưởng là mi đã nằm biệt tích dưới đáy biển mò trai..." Như Hạ chống chế tội tình: " Giữa tau và anh Minh chỉ là bạn..." " Ô hay, tau đâu có nói gì cái chuyện giữa mi và anh Minh. Thôi bọn tau xin lỗi phá mi..." Sau đó hai cô bạn cười khúc khích và chạy đi chỗ khác. Còn lại Như Hạ lầm bầm: " Mấy con nhỏ ni suốt ngày chỉ biết chọc phá người khác." Đó là một đêm xứ Huế lúc chiến tranh chỉ còn ở một nơi nào rất xa, hình như chẳng bao giờ làm bận tâm những đứa con trai con gái. Trường đại học chỉ bao gồm hai ngôi lầu dọc theo bờ sông Hương, và một thư viện, nguyên là kho bạc cũ. Người sinh viên quá d­ễ dàng quen biết nhau, tìm đến nhau, và sau có dễ­ dàng trở thành liên hệ với nhau. Tôi và Như Hạ cũng vậy. Chúng tôi cùng học chung Khoa Học. Chúng tôi cùng chung hàng xóm. Chúng tôi cùng chung kỷ niệm thơ ấu. Chúng tôi cùng chung những ngày đạp xe đạp trên Ngự Bình ăn bánh bèo hay về Cồn Hến ăn chè. Chúng tôi an ổn trong sương muối buổi sáng tháng Giêng và dưới hàng phượng vĩ đỏ ối cả con đường Lê Lợi trong mùa hạ rộn ràng tiếng ve sầu. Chúng tôi bình yên nhìn về phía trước. Không thao thức. Không bâng khuâng.

Nhưng nỗi bình yên kia đã bị bức tử. Một Huế của êm đềm đã không còn êm đềm như xưa nữa. Đêm lửa trại ở Thuận An, với những đôi nam nữ tìm đến với nhau, dưới muôn ngàn tinh tú sáng lung linh đã trở thành một hoài niệm. Tôi thì về biển. Bạn tôi thì lên rừng. Và đau đớn hơn nữa, Như Hạ cũng theo tiếng gọi từ xa. Tất cả trở thành đổ vỡ, phân ly. Không biết tôi oán trách ai đây. Chủ nghĩa hay bạn bè tôi và cả một người tôi si dại mê đắm một thời. Tôi đã đặt câu hỏi và nghe câu trả lời buồn thảm. Bao nhiêu lần tôi trở về cùng biển. Bao nhiêu lần tôi vốc nắm cát và thả xuống từ từ để nhớ về một người nào. Rồi cay đắng. Rồi muốn rưng rưng nước mắt. Ngày còn thơ ấu mỗi lần Như Hạ thấy trái ổi trái xoài chín trên cây thì nàng vẫn nhờ tôi trèo lên để hái dùm. Nàng quá bé bỏng để tôi phải sững sờ khi nghe người dân thành phố kể lại một người con gái lạnh lùng tàn bạo, ngồi sau chiếc bàn dài, với khối quyền uy ghê gớm, kết quả bao nhiêu người đã bị chôn sống tập thể. Có cái gì khiến con người đã trở thành một loài ác thú. Tôi run sợ để nghĩ đến điều đó. Đảng lúc nào cũng khoan hồng. Nhưng vì nhân dân quá nổi giận. Ai đã phát biểu một câu nói để bào chữa cho một tội ác man rợ. Tôi đã đọc bài phỏng vấn về những chiếc huyệt chôn người tập thể từ người của một thời sách vở, và giảng đường trên một tờ báo ngoại quốc. Mười mấy năm sau chiến tranh, ai ai cũng hiểu nhân dân là ai rồi. Thế mà bây giờ người sát nhân chưa một lần thấy lương tâm bị cắn rứt, lại đòi làm người thầy tu. Còn Như hạ của một đêm trên bờ biển Thuận An, chắc bây giờ cũng trở thành một nữ Bồ Tát.

Một nơi nào để tôi còn ngồi lại. Vẫn phòng học ở cạnh dòng Hudson, để mắt tôi phải choáng ngợp bởi một thành phố Nữu Ước vào đêm. Thêm vào gương mặt mới. Một người nữ sinh viên từ Thổ Nhĩ Kỳ. Hai người sinh viên nam nữ Trung Hoa. Và thêm một người con gái Việt Nam. Tôi biết rõ quốc tịch của nàng qua tên họ nàng viết trên tờ giấy điểm danh. Ngo Nhu Hien. Tôi thầm lén nhìn nàng, như thể nói lên lời chào hỏi bằng ánh mắt. Sau đó, vị giáo sư quen thuộc của khóa học trước, một tiến sĩ Toán học, tốt nghiệp cách đây đến ba mươi năm, b¡t đầu ngay vào bài giảng. Ông nói và nói. Đầu tiên, ông nói ông không bằng lòng khi người ta coi môn Math Statistic này được coi là toán học. Toán học là một cái gì rõ ràng phân minh và dứt khoát. Nó như một cộng một là hai. Còn Thống kê học chỉ là một ngành khảo sát về cái không dứt khoát. Nó chẳng khác Hóa học, Vật lý. Nó dùng những kết quả để tìm những lời giải. Ông cười, nếu là toán thì chắc ai cũng trúng số độc đắc hết...

Ông ngồi trên ghế, trước chiếc bàn vuông, nhìn đám sinh viên, nói liên tu bất tận. Chỉ tội nghiệp người con gái Việt Nam ngồi bên cạnh tôi. Đôi mắt của em sao lại làm tôi chết điếng. Như đôi mắt người xưa. Và cả dáng dấp của em, như dáng dấp của một người bên trời Cửa Thuận. Tội tình cho em trong những giờ đầu bỡ ngỡ. Lời giảng của vị giáo sư quá mau, tiếng Anh, tiếng Mỹ chắc làm em phải khó khăn đuổi theo ghi chép. Tôi thấy em chới với cùng trang giấy. Ông thầy thì vô tâm. Không viết gì trên bảng. Chỉ nói, chỉ giảng, chỉ lật trang sách này qua trang khác. Rồi những bài \f3homework.\f2 Ông đọc thật nhanh. Bài 1, 2, 4, 15, 17, 18, 20. Em vô vọng nhìn qua tập vở của tôi, không dám hỏi. Tôi đưa note cho em. Em vừa nhìn vừa viết lại đến tội tình. Sau đó em gật đầu, nói thật ngượng ngùng: - Thank you.

Mười phút nghỉ. Bây giờ tôi mới có dịp làm quen. Tôi hỏi bằng tiếng Việt:
" Xin lỗi cháu là người Việt Nam."
" Thưa Bác, dạ."
" Cháu mới đến trường này lần đầu tiên?"
" Dạ."
" Cháu chắc mới qua Mỹ?"
" Dạ. Cháu mới qua vài tháng..."

Tôi biết rồi. Thì ra người thiếu nữ này là sinh viên Việt Nam du học. Tôi biết được điều đó qua nội san của trường về chương trình trao đổi sinh viên quốc tế. Tôi hỏi thêm:
" Quê cháu ở đâu?"
" Thưa Bác, cháu ở Huế."

Tôi bắt đầu đổi giọng Huế của tôi:
" Bác cũng ở Huế đây. Cháu ở Huế nhưng ở mô?"
" Thưa Bác, cháu ở Đập Đá."
" Đập Đá, nhưng mà ở khúc mô?"
" Khúc giữa, chỗ có nhà thật xưa..."

Tôi bàng hoàng run rẩy. Như Hạ ơi, hay là giọt máu của em, kết tinh từ da thịt em, dáng dấp của em, đôi mắt của em. Một thời xa xưa mà như thể một giấc mơ. Mấy mươi năm, khu vườn xưa ngỡ đã tàn lụi, giờ đây, một đóa hoa lại nở, hương xưa lại trở về. Cay đắng hay là nỗi vui mừng tràn đầy nước mắt. Những gì hôm qua ngỡ đã mất biệt bởi hận thù, chủ nghĩa, đêm nay, đột nhiên sống lại như bão cuồng. Tôi cố nhìn cô bạn học nhỏ. Tôi cố gắng tìm hiểu, đánh giá về một người con gái, con của một cán bộ bên kia hàng ngũ, người đã từng ngồi ở cái bàn oan nghiệt một thời vào năm Mậu Thân. Nhưng tôi chỉ thấy một cõi cô độc đến tội nghiệp. Gương mặt kia, hay là gương mặt ngời sáng dưới ánh lửa trại, để từ bên này, lòng tôi đã nẩy nở bao nhiêu niềm rung động. Và cả đôi mắt kia, như đôi mắt lung linh dưới ánh trăng trên bãi biển, và cả bờ vai kia nữa, mềm mại, dựa vào người tôi. Gió từ sông thổi vào lạnh c¡t, khiến ngời con gái phải run. Tôi bảo:

" Cháu ơi vào lớp đi, kẻo lạnh. Về sau, có gì cần ở bác, bác sẵn sàng giúp. Dù sao bác cũng ở Mỹ mười năm."

Cô gái nói:
" Cháu cám ơn bác. Cháu mới qua không giỏi sinh ngữ nên không ghi chép kịp. Bác có thể cho cháu mượn bài ghi của bác được không?"

" Dĩ nhiên, và hai bác cháu mình sẽ cùng làm homework chung nghen cháu? Cháu hẳn biết ông giáo sư này chú trọng homework hơn cả thi final nữa.

" Cám ơn bác. Cháu sợ không theo kịp. Cháu lo quá."

" Cháu đừng lo. Riết rồi cái gì cũng quen. Cháu có học thêm sinh ngữ không?"

" Dạ họ yêu cầu."

" Này, nếu cháu muốn, bác sẽ mang con gái bác về làm bạn với cháu. Nó sẽ hướng dẫn cháu về Anh văn, nhất là cách phát âm. Nó rất thích bạn."

" Cháu rất cám ơn bác."

Từ buổi học đó, tôi có thêm một cô bạn nhỏ, Như Hiền. Tôi biết rõ về nỗi cô đơn lạc loài của người con gái xa nhà này. Con tôi làm sao hiểu những gì ở tận bề sâu thẳm của con tim cha nó. Nó vui được giúp đỡ một người bạn gái đồng hương. Những ngày cuối tuần hai đứa chở nhau đi shopping, hay tham dự các party bạn hữu. Nó luôn luôn khen Hiền đẹp, hiền và ít nói. Hiền thì khẩn cầu con tôi đừng nói nàng là du học sinh. Hiền vẫn còn sợ cái mặc cảm con cán bộ. Riêng tôi, tôi không bao giờ nhắc đến những ngày hôm qua. Những ngày mà hàng ngũ tôi bị hàng ngũ Như Hạ trả thù hèn hạ. Những ngày mà những kẻ chiến th¡ng kiêu ngạo có thể chiến thắng cả Ông Trời. Hãy để Như Hiền chứng kiến và phán đoán lịch sử.

Một ngày sau buổi học, Như Hiền đột nhiên hỏi tôi:
" Thưa bác, có phải bác viết văn lấy tên là Hạ Trường?"

Tôi biết có chuyện gì sắp xảy đến rồi.
" Phải."

" Cháu nhớ lần đầu, bác đã hỏi cháu về căn nhà cổ xưa ở Đập Đá. Hôm qua, Nga có đưa cháu xem một bài văn của bác. Bác nhắc lại khu vườn xưa, ngay cả cái lầu mà bác từng một thời trọ học. Cháu đọc, cháu khóc. Cháu biết bác là người yêu của mẹ cháu."

Tôi cúi đầu xuống. Lòng tôi chau lạnh. Cả khu vườn tôi muốn quên nay lại sống dậy rồi. Cả cõi quan tài kỷ niệm giờ đã mở bung rồi. Bên tôi, người con gái vẫn tiếp tục kể về khu vườn cũ.


" Ba mẹ cháu và những người mà bác nhắc bây giờ họ vẫn tìm đến ngôi nhà cổ xưa của mẹ cháu, nhưng không phải để họp hành sôi nổi như ngày xưa... Hầu hết các bác và các chú mà bác nhắc đều trả lại thẻ đảng, sau khi tờ báo bị đóng cửa. Thỉnh thoảng họ có nhắc đến tên bác. Họ có nói đọc văn bác ở trên một vài tờ báo hải ngoại được lén lút phổ biến. Bác có đọc những bài thơ của chú Trần Vàng Sao?"

" Có. Bác có đọc. Nhưng cháu hãy nói về ba mẹ cháu đi. Bác muốn nghe."

" Ba cháu vẫn còn trong tổ chức. Lúc này, ai cũng cố bám vào đấy để hưởng ít nhiều ân huệ. Và cũng chính nhờ vậy, cháu mới được cơ hội đi du học như hôm nay."

" Còn mẹ cháu?"

" Mẹ cháu bây giờ sống bằng thuốc ngủ và những lá bùa."

Mắt nàng mờ lệ. Tôi nhìn lên gương mặt. Tôi khóc cho một dĩ vãng. Dòng Hudson hay là dòng sông Hương, để tôi phải đau như một lời thơ của cụ Trần Tế xương Chợt nghe tiếng ếch bên tai. Giật mình cứ ngỡ tiếng ai gọi đò. Ở đây làm gì có tiếng ếch, nhưng là tiếng đắng cay sông núi. Như Hạ ơi, anh đang thấy lại em, đôi mắt vòi vĩnh anh hái dùm trái ổi, trái khế. Anh thấy lại em, giữa khu vườn rậm đầy bưởi, thanh trà, và em mang áo ấm đỏ khi Huế vào đông, khi con nước sông Đập Đá chảy cuồn cuộn mang theo những thân củi, khúc cây từ rừng xuống sông Hương... Cay đắng này chỉ có một mình anh chôn cất. Còn nữa, còn một đêm đầy sao trên bãi biển Thuận An, để sau này anh phải mang hoài hai vì sao nhỏ từ đôi mắt của em. Để anh mỗi lần cầm viết, cứ nghĩ đến một đôi mắt...

Đến đây, Như Hiền nói như nghẹn ngào:

" Đọc văn bác, cháu biết bác vẫn còn căm hận mẹ cháu. Tự nhiên cháu lại tủi thân bởi vì cháu là con của một người trong cuộc. Bác không biết, đến lúc này, cháu chưa hề biết chủ nghĩa Cộng Sản là chủ nghĩa gì. Cháu đâu là Cộng Sản. Cháu cũng như Nga, như những người bạn mà cháu đã gặp, đều nói tiếng Việt, đều thích vui đùa. Bác không biết trước khi qua Mỹ, ba mẹ cháu đã dặn cháu hãy câm và điếc đừng tiết lộ cho ai biết cháu là con của cán bộ. Bác ơi, làm con của cán bộ đâu phải có tội..."

" Vâng, cháu nói đúng. Nhưng ít ra mẹ ba cháu là những người từng trực tiếp hay gián tiếp chôn sống hàng vạn người vô tội ở Bãi Dâu phải tỏ ra một chút gì liêm sỉ, đừng nên nhân danh này nọ để biện hộ cho tội ác."

" Cháu không dám bào chữa cho mẹ, nhưng thưa bác, trong một tổ chức, tiếng nói là tiếng nói của bí thư. Và mọi người chỉ biết cúi đầu lập lại tiếng nói ấy. Ai cũng biết cái vụ thảm sát tàn bạo nhất trong cuộc chiến tranh, nhưng ai cũng không dám nói lên lương tâm của mình.

Riêng mẹ cháu thì từ bệnh mất ngủ đã biến thành bệnh tâm thần. Mẹ nhìn đâu cũng chỉ thấy những oan hồn về đòi mạng. Mẹ đã kêu thầy bùa để yếm từ cổng nhà đến phòng ngủ, nhưng cũng đành chịu thua. Đôi mắt mẹ, mà bác đã từng viết trên bài văn, là đẹp như hai vì sao nhỏ, bây giờ chỉ là hai võng mô đục, không một chút gì sinh khí."


Trần Hoài Thư

Thursday, November 17, 2011

VŨ HOÀNG CHƯƠNG ◙ Ðời Vắng Em Rồi

® Đinh Cường 












Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu
Lênh đênh thương nhớ giạt trời Âu
Thôi rồi - tay nắm tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau

Trai lỡ phong vân gái lỡ tình
Này đêm tri ngộ xót điêu linh
Niềm quê sực thức lòng quan ải
Giây phút dừng chân cuộc viễn trình

Tóc xõa tơ vàng nệm gối nhung
Ðây chiều hương ngát lả hoa dung
Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo
Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng

Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay
Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung một hướng say

Gặp gỡ chừng như truyện Liêu Trai
Ra đi chẳng hứa một ngày mai
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Ðời vắng em rồi say với ai

Phương Âu mờ mịt lối quê nàng
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang
Ghé bến nào đây người hải ngoại
Chiều sương mặt bể có mơ màng

Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không
Mà đây lòng trắng một mùa đông
Tương tư nối đuốc thâu canh đợi
Thoảng gió trà mi động mấy bông

Vũ Hoàng Chương

BÙI GIÁNG ◙ Tao Ngộ


© Thanh Trí














    Thiên thu một thuở tình đầu
    Tận cùng gió gác trăng lầu tái sinh

    Trăm năm mấy lúc giật mình
    Mười năm vô tận mang tình tự đi

    Bốn mươi năm rượu ly bỳ
    Hồi sinh bất chợt nhu mì thấy em

    Rồi có lúc như bây giờ lần nữa
    Một bài ca sẽ chuyển điệu khôn hàn

    Lời gay cấn đầu thai trong vó ngựa
    Hồn hóa sinh về núi đá mưa ngàn
            Bùi Giáng